Mình sử dụng các công cụ hỗ trợ như calendar, to-do,… trong việc điều phối việc cần xử lý mỗi ngày.
Trước khi áp dụng FEO, mình sắp xếp các đầu việc ấy dựa trên thứ tự ưu tiên và deadline cần “trả bài”. Mình thực hiện các đầu việc một cách máy móc nhằm đảm bảo hoàn thành hết KPI đặt ra.
Sau khi áp dụng FEO, mình đã thêm một tiêu chí nữa cho cách sắp xếp thứ tự đầu việc, đó là “mình sẽ học được thêm những gì từ việc cần làm hôm nay”. Mình phân loại đầu việc thành các nhóm kỹ năng khác nhau (kỹ năng viết, kỹ năng biên tập, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng IT,…) và phân phối các nhóm kỹ năng không trùng nhau cho từng ngày, cũng như cố gắng không dồn lượng công việc nhiều vào ít ngày mà dàn trải nhất có thể.
Sử dụng mệnh lệnh thực thi
Mình là một người thích cảm giác “ngập trong áp lực” nên thường bị cuốn trôi bởi thôi thúc “được làm việc”. Điều này vô tình khiến mình rơi vào trạng thái không kiểm soát được bản thân, dễ rơi vào tình trạng kiệt sức bất cứ lúc nào.
Vậy nên, mình đặt ra những mệnh lệnh cho từng khung thời gian trong ngày. Ví dụ, tôi sẽ viết nhật ký vào 9h tối mỗi ngày kể cả phải dừng lại công việc đang làm. Hoặc, tôi sẽ bắt đầu làm việc vào 9 rưỡi sáng và kết thúc vào 5 rưỡi chiều.
Thiết lập thời lượng cụ thể cho mỗi việc cần làm, theo dõi và đo lường hiệu quả công việc của mình.
Ví dụ, mình xác định dành ra 6 tiếng của ngày cho việc hoàn thành bài viết hơn 2000 từ, thời gian viết được đo lường theo quy chế pomodoro (nhằm giúp mình có khoảng nghỉ giữa các lần tập trung). Kết thúc bài viết, website pomodoro sẽ cung cấp biểu đồ về thời gian “tập trung” của mình, mình sẽ biết được mình bắt đầu và kết thúc lúc nào và mất bao lâu để hoàn thành phần việc. Mình so sánh kết quả ấy với bảng thời gian dự tính của bản thân, từ đó xác định được lý do tạo ra sự sai lệch (nếu có).
Kết hợp việc theo dõi này với nhật ký ngày, mình sẽ biết cần cải thiện gì để hoàn thành công việc trong đúng thời gian đề ra. Mình sẽ buộc bản thân phải nâng cao hiệu suất, nhưng không nhằm mục đích “lôi” thêm nhiều việc để làm, mà để mình có khung giờ cho các hoạt động ngoài công việc khác. Một tuần lý tưởng của mình là một tuần có đủ “được làm việc” và “được đi chụp ảnh”.
2, Thay đổi tư duy để biết hài lòng với bản thân.
Một trong những giai đoạn của burnout (kể trên) là đổ lỗi cho những-gì-ngoài-mình, và đó chính là tâm lý coi mình thành nạn nhân thường thấy. Tuy nhiên, một vấn đề cần được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh, và việc mình đi tìm kiếm những khía cạnh ấy cũng chính là nỗ lực cố gắng hiểu đúng về bản thân mình.
Mình sẽ biết lượng công việc thế nào là phù hợp với bản thân, điểm mạnh hay điểm yếu của mình là gì,… Nhờ đó, mình học được cách nói lời từ chối với những yêu cầu “thêm”, nhằm đảm bảo hoàn thành trọn vẹn nhất những nhiệm vụ đã nhận và trong phần việc của mình.
Tương tự, mình sẽ biết bản thân muốn phát triển thêm về lĩnh vực nào và công ty có thể tạo cơ hội ra sao cho mình trong việc va chạm với lĩnh vực ấy. Mình sẽ chủ động đề xuất hỗ trợ những nhiệm vụ ấy và điều phối chúng phù hợp với thời gian biểu.
Quan trọng nhất, bên cạnh việc hướng đến kết quả, mình sẽ tận hưởng quá trình tạo nên kết quả ấy. Mỗi ngày, mình đều ghi chép lại những gì đã trải qua, mình đặt emoji cảm xúc cho từng ngày và không giấu giếm chính bản thân mình những cảm xúc tiêu cực.
Sau một thời gian áp dụng những quy tắc học được từ cuốn sách “Động Lực Nội Tại”, mình đã giảm hẳn những tình huống “tham công tiếc việc”, cũng như biết cách điều phối khối lượng công việc phù hợp hơn. Mình chuyển từ người than vãn sang người lắng nghe than vãn, rồi chuyển từ người lắng nghe than vãn sang người kêu gọi hành động; trạng thái tốt trong công việc đã mở ra cho mình thêm nhiều cơ hội học hỏi hay được kết nối với những lối sống lành mạnh, tích cực, vui vẻ.
Suy cho cùng, mình nghĩ không ai thích làm bạn với một người luôn cáu gắt và thích đổ lỗi cho người khác cả, và việc hiểu rõ tiếng nói nội tâm chính là biện pháp hiệu quả nhất để mỗi chúng ta tìm thấy niềm vui bền vững trong công việc 🤗