Đàm Vịnh Lân | |
---|---|
Sinh | 23 tháng 8, 1950 [1][2] Hồng Kông |
Tên khác | Alan Tam, Uncle Lun (倫伯)
Lucky Lun Hiệu trưởng (校長)[3] Hiệu trưởng Đàm (譚校長)[3] |
Nghề nghiệp | Ca sĩ, diễn viên |
Năm hoạt động | 1969 - nay |
Quê quán | Tân Hội, Giang Môn, Quảng Đông, Trung Quốc |
Tôn giáo | Đạo Phật |
Phối ngẫu | Sally Dương Khiết Vi (楊潔薇) Wendy Chu Dĩnh Đình (朱穎婷) |
Con cái | Đàm Hiểu Phong (譚曉風) |
Cha mẹ | Đàm Giang Bách (譚江柏)[4] |
Giải thưởng | Best Actor 1981 If I Were for Real Golden Needle Award 1996 Lifetime Achievement |
Website | Alan-Tam.com Tamwinglun.com |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | Nhạc pop tiếng Anh Hồng Kông, Cantopop |
Nhạc cụ | Giọng hát, Keyboards |
Hãng đĩa | PolyGram (1979–1999) Universal Music Group (1999–nay) |
Hợp tác với | The Wynners Lý Khắc Cần |
Đàm Vịnh Lân | |||||||||||
Phồn thể | 譚詠麟 | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giản thể | 谭咏麟 | ||||||||||
|
Đàm Vịnh Lân (tiếng Trung: 譚詠麟; tiếng Anh: Alan Tam Wing Lun; sinh ngày 23 tháng 8 năm 1950) là nam diễn viên, ca sĩ, nhà phát hành nhạc của Hồng Kông. Trong thập niên 1980, Đàm Vịnh Lân nổi tiếng với những bản ballad tình ca lãng mạn với nhịp điệu đương đại. Ca khúc "Bẫy tình" là một ví dụ; ca khúc này đã đạt giải thưởng cuộc bầu chọn "Kình ca kim khúc" lần thứ 25. Ngoài ra anh còn có nhiều giải thưởng khác trong sự nghiệp ca hát. Anh là người đã dẫn dắt Trương Học Hữu những ngày đầu tiên bước vào nghề giọng còn non nớt đến hôm nay đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng. Vì một trong những lý do đó Đàm Vịnh Lân còn được gọi bằng cái tên "Hiệu trưởng" (校長/譚校長) như thể các ca sĩ đều là đàn em hay học trò của anh.
Đàm Vịnh Lân khởi đầu vào thập niên 1970 với ban The Wynners, trong đó gồm những thành viên nổi tiếng khác như Kenny Bee (Chung Chấn Đào). Hai người này thay phiên nhau hát chính tạo nên thành công của ban nhạc. Những ca khúc thành công đầu tiên gồm có những bài như 讓一切隨風 (các Ca sĩ Việt Nam dịch và hát lại dưới tựa khác là "Xin mưa ngừng rơi").
Năm 1979 Đàm Vịnh Lân và Chung Chấn Đào tách ra hát solo và hai người đều tạo nên sự nghiệp riêng. Album solo đầu tiên của Đàm Vịnh Lân là 反斗星 (Phản đấu tử). Ca khúc đầu tiên chắp cánh cho sự nghiệp của Đàm Vịnh Lân là 愛在深秋 (Tình trong thu sâu) ra đời năm 1984.
Cuối thập niên 1980 Đàm Vịnh Lân thổi luồng gió mới cho nền tân nhạc Hồng Kông bằng một loại các ca khúc ăn khách như 擁抱 (Ủng bão), 水中花 (Hoa dưới nước), 半夢半醒 (Nửa mộng nửa tỉnh), 愛情陷阱 (Bẫy tình)...
Trong thập niên 90, ông vẫn đều đặn tung ra nhiều bài hát ăn khách và tham gia nhiều film như Armour of God đóng chung với Thành Long nói về cuộc đời của Hoàng Phi Hồng. Đàm Vịnh Lân từng đoạt giải Kim Mã (Golden Horse Film Awards) năm 1981 với film If I were for real.
Năm 2003, Đàm Vịnh Lân tổ chức show lưu diễn vòng quanh thế giới cùng Lý Khắc Cần với hơn 90 buổi trình diễn. Cả hai tiếp tục hợp tác lưu diễn chung và lên nhiều kế hoạch cho đến năm 2005
Năm 2007 Đàm Vịnh Lân được ghi tên vào hàng danh dự 30th Hall of Fame Award from Composers and Authors Society of Hong Kong (CASH) cho sự nghiệp hơn 30 năm và những đóng góp của ông cho làng nhạc Hoa ngữ (以表揚他三十多年來對香港音樂創作及華人樂壇的貢獻)
Năm 2008, anh đắc cử vào "President of the Artists' Guild in Hong Kong".
Báo chí Hồng Kông luôn viết bài và đưa tin về sự chống đối nhau giữa 2 ông vua ngày đó là Đàm Vịnh Lân và Trương Quốc Vinh. Dù sao đi nữa những tị hiềm và đồn đại rồi cũng đi qua. Cuối thập niên 90, Đàm Vịnh Lân xuất hiện cùng Trương Quốc Vinh trong nhiều chương trình vời tình bằng hữu thắm thiết. Năm 1999, Trương Quốc Vinh, cùng 17 ca sĩ khác cùng phát hành album "Paying Tribute to Alan Tam" (誰可改變15週年紀念集) hát lại những ca khúc của Đàm Vịnh Lân để tỏ sự ngưỡng mộ với anh. Album gồm những ca khúc vang bóng một thời: 幻影 (Ảo ảnh), 霧之戀 (Tình sương khói),...