Cân nặng sơ sinh là khối lượng cơ thể của trẻ khi sinh ra.[1] Cân nặng khi sinh trung bình ở trẻ sơ sinh gốc châu Âu là 3,5 kg (7,7 lb), mặc dù phạm vi bình thường là từ 2,5 kg (5,5 lb) đến 4,5 kg (9,9 lb). Trẻ sơ sinh gốc Nam Á và Trung Quốc nhẹ hơn khoảng 240 gram (0,53 lb).[2][3] Cân nặng khi sinh của em bé là đáng chú ý vì trẻ sơ sinh rất nhẹ cân có nguy cơ tử vong cao gấp 100 lần so với trẻ sơ sinh có cân nặng bình thường.[4] Theo tỷ lệ lưu hành tỷ lệ sinh thấp thay đổi theo thời gian, đã giảm nhẹ từ 7,9% (1970) xuống 6,8% (1980), sau đó tăng nhẹ lên 8,3% (2006), đến mức hiện tại là 8.2% (2016).[4][5] Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân có xu hướng tăng nhẹ từ năm 2012 đến nay.[6]
Có hai cơ sở di truyền có liên quan chặt chẽ đến cân nặng khi sinh, ADCY5 và CCNL1, cũng có bốn cơ sở cho thấy một số bằng chứng (CDKAL1, HHEX-IDE, GCK và TCF7L2).[7][8][9] Khả năng di truyền của cân nặng khi sinh dao động từ 25-40%.[10][11] Có một mối quan hệ phức tạp giữa gen của em bé và môi trường của mẹ mà đứa trẻ đang phát triển. Các gen của thai nhi ảnh hưởng đến việc thai nhi phát triển trong tử cung và gen của mẹ ảnh hưởng đến môi trường ảnh hưởng đến thai nhi đang phát triển như thế nào.[8]
^DefinitionsLưu trữ 2012-04-02 tại Wayback Machine from Georgia Department of Public Health. Date: 12/04/2008. Original citation: "Birthweight: Infant's weight recorded at the time of birth"
^ abChild Trends Databank. (2016). Low and very low birthweight infants. Available at: https://www.childtrends.org/?indicators=low-and-very-low-birthweight-infants
^“FastStats”. www.cdc.gov (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018.
^Martin, Joyce A.; Hamilton, Brady E.; Osterman, Michelle J.K.; Driscoll, Anne K.; Drake, Patrick (ngày 31 tháng 1 năm 2018). “Births: Final Data for 2016”. National Vital Statistics Reports. 67 (1): 1–12.
^Clausson, Britt; Lichtenstein, Paul; Cnattingius, Sven (tháng 3 năm 2000). “Genetic influence on birthweight and gestational length determined by studies in offspring of twins”. BJOG: An International Journal of Obstetrics and Gynaecology. 107 (3): 375–381. doi:10.1111/j.1471-0528.2000.tb13234.x. ISSN1470-0328.