Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. (tháng 9 năm 2024) |
Trong âm nhạc, thường có hai cách hiểu về chuỗi nốt nhạc:
Đánh nốt nhạc là quá trình cao độ của một nốt hay nhiều nốt từ các nhạc cụ để thiết lập một quãng cụ thể giữa các nốt này. Đánh nốt nhạc thường dựa trên một quy ước, như là A = 440 Hz. "Chuỗi nốt nhạc vượt" nhằm ám chỉ Cao độ/Tông quá cao (thăng) hoặc quá thấp (giáng) trong mối quan hệ với một nốt được đề cập. Khi một nhạc cụ đang chơi trong một quãng nốt, nó được xem như không "nằm trong Chuỗi" nếu nó không đạt A = 440 Hz(hay bất kì một nốt trung gian mà một nhạc công đang chơi). Một vài nhạc cụ trở nên "vượt tông" do bị hư hoặc sử dụng lâu ngày và buộc phải được điều chỉnh hoặc thay thế.[1]
Những cách tạo ra âm thanh khác nhau cần dùng những phương pháp điều chỉnh khác nhau:
Âm thanh của một vài nhạc cụ như là chũm chọe(cymbol) là không thể hòa âm – chúng có những cao độ đặc biệt không phù hợp với chuỗi nốt hòa âm thông thường.[mơ hồ]
Việc đánh nốt nhạc được thực hiện bằng cách đánh 2 Cao độ khác nhau và điều chỉnh một Cao độ phù hợp hay liên quan đến Cao độ còn lại. Một âm thoa(tuning fork) hay một thiết bị đánh nốt nhạc điện tử có thể được dùng như một Cao độ trung gian, mặc dù trong các buổi diễn thử thì đàn piano thường được dùng nhiều hơn(vì Cao độ của nó không thể được điều chỉnh cho mỗi buổi diễn thử). Dàn nhạc giao hưởng và các ban nhạc trong các buổi giao hưởng có xu hướng đánh La và Si giáng tùy vào nhạc cụ sáo được sử dụng.[cần dẫn nguồn]
Những Phách can thiệp(Interference beats) được dùng như một phương pháp khách quan để đo độ chính xác của việc đánh nốt nhạc. Như hai Cao độ trong sự hòa âm, chu kì của Phách sẽ nhỏ. Khi đánh nốt nhạc hòa âm hay một quãng tám, chúng ta sẽ làm giảm chu kì Phách cho đến khi nó không thể được nhận ra nữa. Đối với một quãng khác thì nó phụ thuộc vào hệ thống nốt đang được sử dụng.
Những âm trong chuỗi hòa âm có thể được dùng để hỗ trợ cho những nhạc cụ không thể đánh những nốt trong việc hòa âm chung. Ví dụ, việc chạm nhẹ đến một dây có Cao độ cao nhất của một violon đệm(cello) tại một điểm ở giữa(Điểm đầu dây) hướng xuống tạo ra một Cao độ tương tự như khi ta làm giống như vậy tại khoảng một phần ba hướng xuống của dây có Cao độ cao thứ hai. Kết quả hòa âm này giúp ta phân biệt dễ dàng và nhanh chóng hơn so với một quãng 5(perfect fifth) của 2 nốt cơ bản.
Trong âm nhạc, thuật ngữ "dây buông" ám chỉ những dây hoàn toàn, không được "bấm" vào..
Dây buông đàn guitar thường xếp theo quãng 4(ngoại trừ Son và Si là quãng 3) như là trong guitar bass và đàn double bass. Dây buông của Violin, viola, và cello được xếp theo quãng 5. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn cụ thể trong việc tạo nên dây buông đàn(điều này còn được gọi là "scordatura") tồn tại đối với việc thay đổi âm thanh của nhạc cụ hay tạo ra những cách chơi khác
Để chỉnh một nhạc cụ, thường sẽ dựa vào một nốt trung gian. Nốt trung gian này thường được phát thông qua một dây, nhờ vào nó mà các dây còn lại được điều chỉnh theo các quãng mong muốn. Đối với đàn ghi-ta, thường dây thấp nhất là dây Mi. Từ dây này, những dây còn lại sẽ được điều chỉnh bằng cách chỉnh bằng tay phím đàn thứ 5(the fifth fret) của dây đã được chỉnh và so sánh nó với dây buông cao hơn tiếp theo. Các dây khác được điều chỉnh tương tự ngoài trừ dây Son, dây Son cần phải dừng tại phím đàn thứ 4(the fourth fret) để tạo ra âm Si được so sánh với dây Si buông ở trên. Một cách chỉnh dây khác là mỗi dây được chỉnh theo một nốt trung gian của dây đó.
Chú ý rằng trong khi ghi-ta và các nhạc cụ có dây khác có những phím(fret) cố định được xếp theo hệ thống âm tự nhiên(equal temperament), Những nhạc cụ có dây không có những phím, như là những nhạc cụ thuộc dòng violin không được xếp giống như vậy. Các loại đàn violin, viola và cello một chu kì âm thanh đa dạng vừa đúng quãng 5 và những tổ hợp như là đàn 4 dây hay dàn nhạc thường được chơi theo quãng 5 dựa trên "hệ thống âm Pythagore"(" Pythagorean tuning") hay chơi một cách cân bằng và chơi trong hệ thống âm tự nhiên, như là khi cùng chơi với những nhạc cụ khác như là piano. Ví dụ, đàn cello, được điều chỉnh xuống từ A220, có nhiều hơn 3 dây(Tổng cộng 4 dây) và quãng 5 thấp hơn khoảng 2 cents so với quãng 5 hệ thống âm tự nhiên, làm cho dây thấp nhất của nó, dây Đô, thấp hơn(tông) 6 cents so với hệ thống âm tự nhiên Đô.
Bảng dưới đây liệt kê những dây buông của một vài nhạc cụ có dây thông dụng và cách chỉnh dây thông dụng của nó.
Điều chỉnh | Nhạc cụ |
---|---|
violin, mandolin, Irish tenor banjo | G, D, A, E |
viola, cello, tenor banjo, mandola, mandocello, tenor guitar | C, G, D, A |
bass đôi, mando-bass, bass guitar* | (B*,) E, A, D, G, (C*) |
guitar | E, A, D, G, B, E |
ukulele | G, C, E, A (chuỗi G cao hơn chuỗi C và E, và thấp hơn chuỗi A hai bậc, được gọi là điều chỉnh quay lại) |
Banjo-15 dây | G, D, G, B, D (một cách điều chỉnh khác, với dây thứ 5 ngắn được điều chỉnh một quãng tám trên dây thứ 3) |
cavaquinho | D, G, B, D (điều chỉnh tiêu chuẩn của Brazil) |
Cách điều chỉnh Violin được áp dụng vào thế kỉ 17 và 18 bởi các nhạc sĩ người Đức và Ý, cụ thể là Biagio Marini, Antonio Vivaldi, Heinrich Ignaz Franz Biber(những người trong Rosary Sonatas hướng dẫn những thay đổi lớn và đa dạng, bao gồm cả việc chỉnh sửa các dây giữa), Johann Pachelbel và Johann Sebastian Bach, Tác phẩm "Fifth Suite For Unaccompanied Cello" của họ đề nghị giảm dây La xuống dây Son. Trong tác phẩm Mozart's Sinfonia Concertante với nốt Mi giáng Trưởng(K.364), tất cả các dây của một cây đàn viola được nâng lên một cung rưỡi, với một lý do khó hiểu là tạo cho nhạc cụ một tông rõ ràng hơn để mà một cây đàn violin không làm mờ âm của nó.
Việc điều chỉnh tông(Scordatura) cho một cây đàn violin cũng từng được đề cập vào những năm của thế kỉ 19 và 20 trong tác phẩm của Niccolò Paganini, Robert Schumann, Camille Saint-Saëns và Béla Bartók. Trong Saint-Saëns' "Danse Macabre", các dây cao của đàn violin thấp hơn nửa cung(tông) so với E♭ để có một nốt mạnh nhất của âm chính trên một dây buông. Trong tác phẩm "Contrasts" của Bartók, đàn violin được chỉnh là G#-D-A- E♭để có thể chơi một cách dễ dàng hơn trong Quãng 3 cung(đúng) trên các dây buông.
Những nghệ sĩ violin nhạc đồng quê Mỹ của the Appalachians và Ozarks thường thường điều chỉnh dây cho những bài nhạc để nhảy và các bản ballads. Việc chỉnh dây phổ biến là A-E-A-E. Tương tự, những nhạc công banjo trong truyền thống này dùng nhiều tông khác nhau để chơi các Giai điệu trong nhiều Âm giai khác nhau.Một lựa chọn phổ biến khác trong việc điều chỉnh Tông cho việc chơi D là A-D-A-D-E. Nhiều nhạc công guitar của dòng nhạc Đồng quê cũng chỉnh Tông khác với chuẩn bình thường, ví dụ là D-A-D-G-A-D, rất phổ biến trong dòng nhạc Ailen.
Một nhạc cụ được điều chỉnh giảm Cao độ trong suốt việc chỉnh Tông gọi là "Hạ tông"("down-tuned") hay "Tông hạ"("tuned down"). Những trường hợp này thường thấy trong guitar điện và guitar điện bass trong dòng nhạc Rock hiện đại, theo đó một hay nhiều dây thường được chỉnh thấp hơn so với Cao độ chuẩn(concert pitch). Không nên nhầm lẫn việc này với những thay đổi điện tử về những chu kì cơ bản, thường được hiểu là kĩ thuật chuyển Cao độ(pitch shifting).
Nhiều nhạc cụ gõ được điều chỉnh bởi người chơi, bao gồm nhạc cụ gõ có cao độ (pitched percussion instruments) như là kiểng đồng và trống Ấn Độ, và nhạc cụ gõ không có cao độ như là trống lưới thường gọi là trống lẫy (snare drum).
Điều chỉnh Cao độ của Bộ gõ cũng giống như các nhạc cụ khác, những điều chỉnh "Bộ gõ không có cao độ" không tạo ra những cao độ đặc biệt. Vì một vài lý do, thuật ngữ "Bộ gõ có cao độ" và "Bộ gõ không có cao độ" không còn được sử dụng trong Nhạc cụ học (organology).
Hệ thống điều chỉnh Cao độ là một hệ thống dùng để xác định Tông hay Cao độ được dùng khi chơi nhạc. Nói cách khác, nó là việc lựa chọn số lượng và khoảng cách của các giá trị tần số được sử dụng.
Vì có sự tương tác giữa các Tông và Âm sắc trong ngành Âm thanh học(psychoacoustic), Việc kết hợp các Tông lại với nhau nghe cao hơn hoặc thấp hơn "tiêu chuẩn" trong việc kết hợp các Âm sắc khác nhau. Ví dụ, sử dụng những Âm sắc hài hòa:
Nhiều Âm phức tạp hơn có thể được tạo ra thông qua các mối quan hệ khác.[2]
Việc tạo ra Hệ thống điều chỉnh Cao độ trở nên phức tạp vì các Nhạc sĩ muốn làm cho nó nhiều hơn so với việc chỉ là một số lượng nhỏ Tông. Khi số lượng Tông tăng lên thì sự mâu thuẫn trong việc kết hợp các Tông lại với nhau cũng tăng lên. Tìm được sự điều chỉnh Tông phù hợp là một vấn đề còn nhiều tranh cãi, và đã dẫn đến việc tạo ra nhiều hệ thống điều chỉnh Cao độ trên khắp thế giới. Mỗi hệ thống điều chỉnh Cao độ có những đặc điểm, điểm mạnh và điểm yếu riêng.
Có nhiều kĩ thuật cho lý thuyết so sánh trong việc điều chỉnh Cao độ, thường sử dụng những công cụ Toán học của đại số tuyến tính, cấu và nhóm lý thuyết.
Chúng ta không thể điều chỉnh Âm giai chromatic 12 nốt để cho tất cả các quãng đều thuần nhất. Ví dụ, một quãng 3 trưởng có thể tăng lên đến 125/64, mức 1158.94 cents cách quãng tám một phần tư Tông. Vì vậy, không có cách nào để có vừa quãng tám vừa quãng 3 trưởng trong cùng một sự ngân hoặc giảm giọng cho tất cả các quãng trong cùng hệ thống 12 nốt. Một vấn đề tương tự cũng xuất hiện với quãng 5 3/2, và quãng 3 thứ 6/5 hay bất kì một chuỗi hòa âm nào khác dựa trên những quãng thuần nhất.
Có nhiều phương pháp mang tính tương đối để giải quyết vấn đề này, mỗi phương pháp đều có những đặc điểm riêng, điểm mạnh, điểm yếu khác nhau.
Một trong những phương pháp đó là:
Những hệ thống điều chỉnh Cao độ không được tạo ra với những quãng duy nhất thường được ám chỉ là sự điều hòa(temperaments).