Thiết bị quang học hay dụng cụ quang học (tiếng Anh: Optical instrument)[1] là thiết bị xử lý sóng ánh sáng để phóng to hình ảnh hoặc phân tích sóng ánh sáng (hoặc photon) để xác định một trong số các tính chất đặc trưng.
Các dụng cụ quang học đầu tiên đã được sử dụng là các loại thấu kính để giúp phóng to kích thước của các vật thể (như kính lúp),[1][2] hay để điều chỉnh tầm nhìn cho thích hợp cho những người bị tật khúc xạ như kính mắt với kính cận thị hoặc kính viễn thị.[2] Bằng chứng đầu tiên mô tả về một dụng cụ giúp phóng to hình ảnh là thấu kính Aristophanes ở năm 424 trước công nguyên, dụng cụ được mô tả là một quả cầu thủy tinh chứa đầy nước có khả năng đọc bất cứu lá thư nào mà không cần biết chữ viết của nó nhỏ và mờ bao nhiêu.[2] Triết gia Roger Bacon đã mô tả các đặc tính của kính lúp vào thế kỷ 13, và kính mắt (cho người bị tật khúc xạ) cũng được phát triển vào thể kỷ 13 tại Ý.[2]
Kính viễn vọng được sử dụng để phóng đại hình ảnh ở xa và kính hiển vi được sử dụng để phóng đại hình ảnh rất nhỏ. Kể từ thời Galileo và Van Leeuwenhoek, những công cụ này đã được cải tiến rất nhiều và mở rộng sang các phần khác của phổ điện từ. Ống nhòm là một thiết bị thường nhỏ gọn cho cả hai mắt được thiết kế để sử dụng di động. Máy ảnh cũng có thể được coi là một loại thiết bị quang học, với máy ảnh pinhole và máy ảnh tối là những ví dụ rất đơn giản của các thiết bị như vậy.
Một loại dụng cụ quang học khác được sử dụng để phân tích các tính chất của vật liệu ánh sáng hoặc quang học. Chúng bao gồm:
Bộ giải mã DNA có thể được coi là dụng cụ quang học khi chúng phân tích màu sắc và cường độ ánh sáng phát ra từ một fluorochrom gắn với một nucleotide cụ thể của chuỗi DNA.
Các dụng cụ dựa trên cộng hưởng plasmon bề mặt sử dụng khúc xạ kế để đo và phân tích các tương tác sinh học.
|website=
(trợ giúp)
|website=
(trợ giúp)