Explorer 34

Explorer 34
250px
Hình ảnh vệ tinh Explorer 34.
Dạng nhiệm vụNghiên cứu không gian
Nhà đầu tưNASA
COSPAR ID1967-051A[1]
Số SATCAT2817
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ
Khối lượng phóng163 kg (359 lb)
Bắt đầu nhiệm vụ
Ngày phóngKhông nhận diện được ngày tháng. Năm phải gồm 4 chữ số (để 0 ở đầu nếu năm < 1000).  UTC[2]
Tên lửaDelta (rocket family) 486/D49
Địa điểm phóngVandenberg Air Force Base Vandenberg AFB Space Launch Complex 2[3]
Kết thúc nhiệm vụ
Ngày kết thúcngày 3 tháng 5 năm 1969 (ngày 3 tháng 5 năm 1969)[4]
Các tham số quỹ đạo
Hệ quy chiếuGeocentric orbit
Chế độHighly elliptical orbit
Độ lệch tâm quỹ đạo0.92489[1]
Cận điểm2,031 km (1,262 mi)[1]
Viễn điểm209,242 km (130,017 mi)[1]
Độ nghiêng68.5°[1]
Chu kỳ6,218.3 minutes[1]
Kỷ nguyênngày 24 tháng 5 năm 1967[1]
Thiết bị
 

Explorer 34, còn được gọi là IMP-4 và nền tảng giám sát liên hành tinh IMP-F, là một vệ tinh của Hoa Kỳ được phóng lên như là một phần của chương trình Explorers. Explorer 34 được đưa vào quỹ đạo ngày 24 tháng 5 năm 1967 tại Căn cứ Không quân Vandenberg, California, Hoa Kỳ và được phóng nhờ sự hỗ trợ của tên lửa đẩy Delta. Explorer 34 là vệ tinh thứ tư của Nền tảng giám sát liên hành tinh - Interplanetary Monitoring Platform.[5]

Nhiệm vụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Explorer 34 được phóng vào quỹ đạo Trái Đất có độ nghiêng cao, có độ lệch cao. Điểm viễn địa nằm gần mặt phẳng hoàng đạo và có thời gian địa phương ban đầu khoảng 1.900 giờ. Tàu vũ trụ Explorer 34 được ổn định theo lực quay và có thời gian quay đầu tiên là 2,6 giây. Vectơ quay của tàu vũ trụ này xấp xỉ vuông góc với mặt phẳng hoàng đạo. Giống như các phi thuyền IMP trước đó, phi thuyền này được thiết kế để nghiên cứu các từ trường liên hành tinh, các hạt năng lượng và plasma trong không gian ngoài Trái Đất.

Hệ thống liên quan đến quang học của tàu vũ trụ Explorer 34 đã ngừng hoạt động vào ngày 4 tháng 3 năm 1969. Nếu không, dữ liệu hữu ích đã được gửi về Trái Đất cho đến trước khi tàu vũ trụ Explorer 34 rơi trở lại vào khí quyển Trái Đất vào ngày 3 tháng 5 năm 1969.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h “IMP-F”. NSSDCA. NASA Goddard Space Flight Center. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  2. ^ “Launch Log”. Jonathan's Space Page. Jonathan McDowell. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018.
  3. ^ “IMP”. Encyclopedia Astronautica. Mark Wade. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018.
  4. ^ “EXPLORER 34”. n2yo.com. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018.
  5. ^ “Explorer 34/IMP-4”. Spacecraft Encyclopedia. Claude Lafleur. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sơn mài - hình thức nghệ thuật đắt giá của Việt Nam
Sơn mài - hình thức nghệ thuật đắt giá của Việt Nam
Sơn mài là một hình thức tranh sơn phết truyền thống của Việt Nam được tạo ra từ một loại sơn độc được thu hoạch từ một vùng xa xôi của đất nước
Đã biết có cố gắng mới có tiến bộ, tại sao nhiều người vẫn không chịu cố gắng?
Đã biết có cố gắng mới có tiến bộ, tại sao nhiều người vẫn không chịu cố gắng?
Những người càng tin vào điều này, cuộc sống của họ càng chịu nhiều trói buộc và áp lực
[Preview] Koigoku No Toshi – Thành phố chúng ta đang sống là giả?
[Preview] Koigoku No Toshi – Thành phố chúng ta đang sống là giả?
Makoto, một thanh niên đã crush Ai- cô bạn thời thơ ấu của mình tận 10 năm trời, bám theo cô lên tận đại học mà vẫn chưa có cơ hội tỏ tình
Valentine đen 14/4 - Đặc quyền bí mật khi em chưa thuộc về ai
Valentine đen 14/4 - Đặc quyền bí mật khi em chưa thuộc về ai
Giống như chocolate, những món ăn của Valentine Đen đều mang vị đắng và ngọt hậu. Hóa ra, hương vị tình nhân và hương vị tự do đâu có khác nhau nhiều