Gà Ri Ninh Hòa là một giống gà nội địa có nguồn gốc ở tỉnh Khánh Hòa nơi có ngã ba giao thương với tỉnh Đăk Lăk, chúng là một đặc sản của vùng Ninh Hòa, cùng với món nem nướng Ninh Hòa. Giống gà ri Ninh Hòa đã được Nhà nước Việt Nam công nhận là một giống vật nuôi được phép sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam[1][2][3]
Khu vực Nam Trung Bộ đang tồn tại một trong những giống gà địa phương rất quý mang tên Gà Ri Ninh Hòa. Đây là địa danh của một huyện phía Bắc của tỉnh Khánh Hòa, có ngã ba giao thương với tỉnh Đăk Lăk. Giống gà ri Ninh Hòa hiện nay vẫn đang được lưu giữ với số lượng nhỏ trong dân từ đời này sang đời khác, còn lại một lượng lớn đang được nuôi giữ và sản xuất tại thôn Dầu Sơn, Suối Tân, Cam Lâm, Khánh Hòa. Gà ri Ninh Hòa là giống bản địa có chất lượng thịt thơm ngon, vị ngọt đặc trưng, khả năng chống chịu bệnh cao và thích nghi với nuôi thả trong điều kiện thời tiết ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên[4].
Giống gà ri Ninh Hòa có đặc điểm tầm vóc to, cao, mau lớn hơn hẳn các giống gà ta thường thấy (mặc dù nó có tên gọi là gà ri). Gà mái có lông màu xám hoặc xám vàng, gà trống có lông màu sẫm tía hoặc đen tía, về tổng quan đó là những con gà có lông cánh hình bán nguyệt, chấm đen trên lông cánh (5 - 6 sợi lông cánh), lông vũ ở ngực và lưng có vệt sọc nằm dọc cũng có hình bán nguyệt. Con trống có màu đen, trên lưng có lông màu đỏ tía hay màu dâu, sợi lông dài đó là những đặc điểm tính trạng ban đầu của giống gà ri Ninh Hòa[5].
Gà mái có khối lượng nuôi 3 tháng có thể đạt 1,4 kg, 4 tháng có thể đạt 1,7 kg và trưởng thành có thể đạt 2,3 kg. Gà trống có khối lượng khi 3 tháng tuổi có thể đạt 2,0 kg, 4 tháng có thể đạt 2,3 kg và trưởng thành có thể đạt 3,5 kg. Nhìn chung, con trống tối đa đạt 3 kg, con mái nhỏ hơn 1,7 - 1,8 kg. Thịt gà chắc, thơm ngon, thịt ngon, tỷ lệ thịt ức lớn so với nhiều giống gà khác. Với phẩm chất thịt thơm ngon nên giá thịt gà hơi thường cao, nhiều khi cao điểm giá lên cao hơn nhiều so với các giống gà địa phương khác[5].
Gà có khả năng thích nghi cao, chịu kham khổ và kháng bệnh tốt. Gà ri Ninh Hòa là giống địa phương, được người dân chọn lọc từ lâu, có nhiều đặc tính tốt như thích nghi được với khí hậu nắng nóng, có sức đề kháng cao, ít bệnh tật. Khuyết điểm của giống gà này là đẻ ít, chỉ 80 - 90 trứng/năm[5]. Gà ri là giống gà thả vườn, không thích hợp với việc nuôi nhốt phối trộn thức ăn, tăng thêm lúa, trấu nghiền, rau xơ, bên cạnh các loại thức ăn công nghiệp, giúp gà ít béo, chóng lớn nhưng không cắn mổ nhau khi nuôi chung với số lượng lớn.
Qua thời gian, giống gà này đã bị lai tạp và mất đi những tính trạng tốt ban đầu[5] Do tập quán chăn nuôi hỗn hợp, không áp dụng quy trình chọn lọc nên giống gà ri Ninh Hòa bị thoái hóa, lai tạp, mất đi những tính trạng tốt ban đầu. Ở Khánh Hòa, giống gà này ngày càng thoái hóa. Hiện nay, chính quyền đang xây dựng kế hoạch thực hiện nuôi giữ giống gốc, bảo tồn và phát triển giống gà ri Ninh Hòa, quy mô nuôi giữ giống gốc 3.000 con.
Nếu giống gà này được phục hồi sẽ mang lại hiệu quả lớn Nguồn gen quý được bảo vệ, các tính trạng tốt được phát huy. Đây là hướng đi mới cho ngành chăn nuôi gia cầm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện tượng tạp giao, pha trộn làm phai mờ những đặc tính quý ban đầu[5]. Giống Gà ri Phùng Dầu Sơn là giống gà nội được phục tráng từ giống gà ri Ninh Hòa, phù hợp với điều kiện chăn nuôi tập trung cũng như chăn thả vườn[6] Mô hình nuôi gà khép kín tại xã Vĩnh Lương, nuôi giống gà địa phương, giống gà ở Ninh Xuân-Ninh Hòa, có chất lượng thịt thơm ngon, dễ tiêu thụ, gà mái giống Minh Mai, có trọng lượng từ 2,5–3 kg/con và chọn gà trống là giống gà nòi cho phối giống[7].
Một trong những cách bảo tồn là mua lại những con gà có màu lông gốc để từ đó chọn tạo nhằm tìm ra dòng thuần chủng, trên cơ sở đó đã bảo tồn được giống gà ri Ninh Hòa với 5.000 con gà bố mẹ thuần và 20.000 con gà ri lai bố mẹ. Đàn gà ri đã lên tới 16.000 con, trong đó 5.000 con bố mẹ thuần chủng và 11.000 con lai bố mẹ chọn lọc chuẩn bị cho đẻ để nhân đàn. Với phương pháp nuôi gà tập trung dưới tán cây xanh, nuôi sinh sản kết hợp nuôi thương phẩm trên diện tích chuồng trại, sản xuất quy mô lớn, quy trình nuôi khép kín[8].