Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản Nippon Rekōdo Kyōkai | |
---|---|
Thành lập | 1942 |
Loại | Tiêu chuẩn kĩ thuật, cấp phép và tác quyền |
Trụ sở chính | Kita-Aoyama, Minato, Tokyo |
Vị trí | |
Thành viên | 19 thành viên chính 15 thành viên liên kết 24 thành viên hỗ trợ |
Chủ tịch và Tổng giám đốc điều hành | Masaaki Saito (Victor) |
Nhân vật chủ chốt | Phó chủ tịch: Hirohumi Shigemura (King), Shinji Hayashi (Avex) Giám đốc: Shinichi Yoshida (Nippon Columbia), Seiichi Ishibashi (Teichiku), Naoshi Fujikara (UMG Japan), Kazunobu Kitajima (Nippon Crown), Masahiro Shinoki (Tokuma Japan), Takashi Yoshimura (Pony Canyon), Kazuyuki Kobayashi (WMG Japan), Shuji Hanafusa (VAP), Yutaka Goto (For Life), Shunsuke Muramatsu (Sony Music) Tổng giám đốc quản lý và Tổng giám đốc tác nghiệp: Kotaro Taguchi Giám đốc quản lý: Kenji Takasugi Giám đốc điều hành và Tổng giám đốc: Yoichiro Hata Kiểm toán: Mitsuo Takako (DreaMusic), Nobuyuki Ogino (Yamaha Music), Atty. Hideto Ishida (reference:[1]) |
Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (日本レコード協会 Nippon Rekōdo Kyōkai) hay RIAJ (Recording Industry Association of Japan) là một hiệp hội thương mại bao gồm các doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động trong ngành công nghiệp âm nhạc được thành lập vào năm 1942. Các hoạt động của RIAJ bao gồm đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh âm nhạc, thi hành luật bản quyền cũng như các nghiên cứu liên quan đến ngành công nghiệp âm nhạc Nhật Bản. Hàng năm, tổ chức này xuất bản RIAJ Year Book có nội dung tóm tắt các số liệu về doanh số âm nhạc trong năm vừa qua. Có trụ sở tại Minato, Tokyo, RIAJ bao gồm 20 công ty thành viên chính cũng như một số thành viên liên kết và thành viên hỗ trợ; trong đó có chi nhánh Nhật Bản của các công ty đa quốc gia có trụ sở tại nước ngoài. Tổ chức này cũng chịu trách nhiệm chứng nhận doanh số cho các bài hát và album tại Nhật Bản.
Năm 1989, RIAJ bắt đầu đưa vào hoạt động hệ thống chứng nhận doanh số âm nhạc của mình. Hiện nay, tất cả mọi loại hình âm nhạc bao gồm đĩa đơn, album và nhạc số đều sử dụng cùng một tiêu chuẩn.
Chứng nhận | |||||
---|---|---|---|---|---|
Vàng | Bạch kim | 2× Bạch kim | 3× Bạch kim | 1 triệu | Nhiều triệu |
100.000 | 250.000 | 500.000 | 750.000 | 1.000.000 | 2.000.000+ |
Định dạng | Loại hình | Chứng nhận[2] | ||
---|---|---|---|---|
Vàng | Bạch kim | 1 triệu | ||
Album | Trong nước | 200.000 | 400.000 | 1.000.000 |
Quốc tế | 100.000 | 200.000 | ||
Đĩa đơn | Trong nước | 200.000 | 400.000 | |
Quốc tế | 50.000 | 100.000 |
Việc chứng nhận dành cho các bài hát và album được phát hành trực tuyến bắt đầu được thực hiện từ ngày 20 tháng 9 năm 2006 và sử dụng các dữ liệu được tổng hợp từ đầu thập niên 2000.[3] Từ năm 2006 đến năm 2013, có ba hạng mục chứng nhận: Chaku-uta (着うた(R) "Nhạc chuông"), Chaku-uta Full (着うたフル(R) "Tải về trên điện thoại di động") và PC Haishin (PC配信 "Tải về trên máy tính cá nhân"). Ngày 28 tháng 2 năm 2014, hai hạng mục Chaku-uta Full và PC Haishin được hợp nhất thành hạng mục Single Track (シングルトラック).[4] Cho đến nay mới chỉ có duy nhất một album nhạc số được RIAJ chứng nhận, đó là album từ thiện Songs for Japan (2011).[5]
Loại | Điều kiện[6] | |||||
---|---|---|---|---|---|---|
Vàng | Bạch kim | 2x Bạch kim | 3x Bạch kim | Triệu | ||
Chaku-uta (R) | 500,000 | 750,000 | 1,000,000 | |||
Single Track | 100,000 | 250,000 | ||||
Album |
¹ Thành viên của Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên riajdigital