Lợn Thuộc Nhiêu là một giống lợn lai có nguồn gốc từ Việt Nam. Đây là con lai giữa lợn Bồ Xụ và lợn Yorkshire ở vùng Thuộc Nhiêu, huyện Châu Thành và Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Chúng nhóm lợn trắng lai, hình thành từ 1930 gồm nhiều máu lợn ngoại và địa phương, trong đó có máu của lợn Yorkshire. Chúng được phát triển rộng ở miền Đông Nam Bộ, và ở các tỉnh vùng nước ngọt đồng bằng sông Cửu Long.
Lợn Thuộc Nhiêu là nhóm giống lợn lai giữa lợn ngoại với lợn nội được hình thành từ hàng trăm năm trước đây và được phát triển trong sản xuất ở nhiều vùng. Đầu tiên là con lai giữa lợn địa phương với lợn Tàu mà người Hoa đưa vào Việt Nam từ những năm 1900, những con lai này tiếp tục lai với lợn Crannais do người Pháp mang vào đầu những năm 1920, sau đó những con lai lại tiếp lục lai với lợn Yorshire hình thành nên nhóm giống lợn Thuộc Nhiêu. Lợn này lấy tên địa danh Thuộc Nhiêu là tên một làng thuộc xã Dưỡng Điềm, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và được phát triển khá rộng ra các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Long An, Đồng Nai, Bình Thuận, Cần Thơ, Sóc Trăng.
Lợn Thuộc Nhiêu có lông màu trắng, có thể có vài đốm đen nhỏ. Lợn Thuộc Nhiêu có màu lông da trắng tuyền, một số có bớt đen nhỏ, thường ở quanh mắt, một số nhỏ có da bông đen trắng, lông trắng hoặc da bông đen trắng, lông đen trắng. Đầu to vừa, mõm hơi cong, mũi thẳng thon, tai nhỏ, ngắn, hơi nhô về phía trước. Đa số lợn có thể chất thanh sổi, thân hình vuông, thấp, lưng hơi oằn, mông vai nở, chân thấp, yếu, đi ngón, móng xoè, đuôi ngắn.
Nhìn chung, lợn Thuộc Nhiêu là nhóm giống lợn được hình thành từ việc tạp giao giữa nhiều giống, qua nhiều thế hệ và thời gian rất dài, tầm vóc lợn Thuộc Nhiêu thuộc loại khá. Khối lượng giết mổ là 107, khối lượng thịt xẻ đạt 79.40 kg, Tỷ lệ thịt xẻ 74.32%, tỷ lệ thịt nạc đạt 32.03%, tỷ lệ thịt mỡ đạt 38.20%. Do lợn Thuộc Nhiêu là sản phẩm của sự tạp giao giữa lợn địa phương với nhiều giống lợn ngoại và cỏ chiều hướng thiên về lợn Yorkshine nên nỏ mang nhiều đặc tính của lợn Yorkshine và thích nghi khí hậu vùng nuôi. Tuy nhiên do tính chất giống lai và phương thức nuôi nên lợn Thuộc Nhiêu cỏ phần nhiều mỡ hơn.
Lợn đực có khả năng làm việc sinh sản lúc 6 tháng tuổi, khi đó khối lượng cơ thể đạt khoảng 50 kg. Lượng tinh dịch mỗi lần xuất 90-100 ml, hoạt lực tinh trùng đạt 80% và nồng độ tinh trùng khoảng 175 triệu/ml. Lợn cái: Lợn cái cỏ tuổi động dục đầu tiên lúc 210 ngày (7 tháng tuổi), tuổi phối giống lần đầu lúc 240 ngày (8 tháng tuổi) và đẻ lứa đầu lúc 355 ngày (gần 1 năm tuổi). Bình quân lợn đẻ 2 lứa/năm; số con sơ sinh trung bình mỗi lứa 9,5 con; nuôi sống đến cai sữa chín con.
Lợn Thuộc Nhiêu loại hình to cho tỷ lệ thịt khá cao, xấp xỉ một số giống lợn ngoại đã nhập vào Việt Nam như lợn Yorkshire. Với việc gia tăng máu ngoại thông qua lai với lợn Yorkshire đực, lợn Thuộc Nhiêu ngày càng có ngoại hình thiên về lợn Yorkshire. Giống lợn này chịu đựng được nhiều điều kiện chăn nuôi kham khổ, có khả năng sử dụng tốt thức ăn nghèo protein, nuôi con khéo, chống chịu bệnh tốt, phù hợp với chăn nuôi gia đình. Mỡ nhiều, tỷ lệ nạc đạt 40-42%. Hiện nay giống lợn này chỉ còn ở vùng sâu, vùng xa, các vùng khác được cải tiến bằng cách lai pha máu với lợn Yorkshire.
Sau năm 1975, do áp lực của thị trường và với chủ trương tạo giống lợn Yorkshire Việt Nam, lợn Thuộc Nhiêu được lai cấp tiến với lợn đực Yorkshire (qua thụ tinh nhân tạo) và ngày nay hình bỏng con lợn Thuộc Nhiêu chỉ còn qua những con lai năng suất thấp. Công tác lưu giữ nguồn gần chủ yếu tập trung vào việc thu thập tư liệu của giống lợn này mà không tiến hành giữ giống thuần, một phần vì khỏ thực hiện ở một địa bàn áp lực thị trường mạnh, phần nữa vì bản thân giống không cỏ những nét thật đặc trưng vì quá gần với lợn Yorkshire.