Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Bạn có thể giúp cải thiện trang này nếu có thể. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết.(tháng 12/2021)
Thạc sĩ quản trị kinh doanh (tiếng Anh: Master of Business Administration - MBA) là bằng thạc sĩ bắt nguồn từ nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20 khi các nước phát triển cũng như các doanh nghiệp tìm cách áp dụng bộ môn khoa học quản trị.
Tại Việt Nam, Chương trình MBA cấp cao VEMBA được Trường Kinh doanh Shidler Đại học tổng hợp Hawaii (Mỹ) thực hiện đào tạo trực tiếp hàng năm trong suốt hơn 20 năm qua (bắt đầu từ năm 2001 ở Hà Nội.) VEMBA được AACSB kiểm định và được coi là hình mẫu về đào tạo quản lý chất lượng cao tại Việt Nam.
Trường Kinh doanh Harvard thành lập chương trình MBA đầu tiên vào năm 1908, với 15 giảng viên, 33 sinh viên chính quy và 47 sinh viên đặc biệt.[3][4] Chương trình giảng dạy năm đầu tiên của trường dựa trên quản lý khoa học của Frederick Winslow Taylor. Số lượng sinh viên MBA tại Harvard tăng nhanh chóng, từ 80 vào năm 1908, hơn 300 vào năm 1920 và 1.070 vào năm 1930.[5] Vào thời điểm này, chỉ có các trường đại học Mỹ cung cấp MBA. Các quốc gia khác ưu tiên đào tạo kinh doanh qua công việc.[5]
1943: Chương trình MBA điều hành đầu tiên (EMBA) dành cho các chuyên gia đang làm việc tại Trường Kinh doanh của Đại học Chicago.[8] Chicago cũng là trường kinh doanh đầu tiên thành lập các cơ sở thường trú tại ba lục địa ở Chicago (Hoa Kỳ), Barcelona (Châu Âu) và Singapore (Châu Á). Hầu hết các trường kinh doanh ngày nay cung cấp một thành phần toàn cầu cho MBA điều hành của họ. Kể từ khi chương trình được thành lập, trường đã chuyển cơ sở của mình và hiện có trụ sở tại Chicago, London, và Hong Kong.
1963: Chương trình MBA đầu tiên do Trường Kinh doanh Đại học Hàn Quốc (KUBS) cấp tại Hàn Quốc.[14]
1986: Chương trình MBA đầu tiên yêu cầu mỗi sinh viên phải có một máy tính xách tay trong lớp học tại Trường Kinh doanh Sau đại học Roy E. Crummer tại Rollins College (Florida).[15] Bắt đầu từ năm học 1992–1993, Trường Kinh doanh Columbia yêu cầu tất cả sinh viên sắp nhập học phải mua một máy tính xách tay với phần mềm tiêu chuẩn, trở thành trường kinh doanh đầu tiên làm như vậy.[16][17]
Nội dung đào tạo của các chương trình MBA rất đa dạng, phong phú, gắn liền với mọi vấn đề trong kinh doanh. Nó cung cấp cho người học những kiến thức và kĩ năng chuyên nghiệp có thể đáp ứng được công việc quản lý kinh doanh đầy phức tạp. Nội dung của chương trình học MBA là sự cân bằng giữa giáo dục kinh doanh chính thức và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
- Các môn học, gồm có môn học bắt buộc và môn học tự chọn.
Các môn học bắt buộc như: kế toán, kinh tế học, tài chính, marketing, quản trị nhân lực, hoạt động tổ chức, phân tích định lượng, kế hoạch chiến lược, quản lý hoạt động, luật kinh doanh, đạo đức kinh doanh, kết cấu công ty và quản lý tổ chức, Luật.
Các môn tự chọn: tùy vào nhu cầu học tập thực tế của mình, các học viên được tự do lựa chọn một số môn học. Các môn tự chọn phổ biến là: Kĩ thuật và thương mại điện tử, Tư vấn, Quản lý chung, Lãnh đạo, Chiến lược tập thể, Đạo đức kinh doanh, Các vấn đề về kinh tế và tài chính, Quản lý kinh doanh nhỏ, Quản trị nhân lực trong hình thức kinh doanh nhỏ, Quản lý và sinh thái học...
- Trong môi trường kinh doanh toàn cầu hóa ngày nay, nền kinh tế của một quốc gia chính là một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu. MBA hướng người ta tới việc quản lý hoạt động của một bộ phận kinh tế toàn cầu đó, vì vậy nội dung môn học thường được nêu thành các chủ đề có ý nghĩa rất sâu và rộng mở. Đó thường là những vấn đề mang tính toàn cầu chứ không chỉ hạn hẹp trong phạm vi một quốc gia hay một thị trường cụ thể nào. Chẳng hạn khi học về đạo đức kinh doanh, chủ đề đặt ra là trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với vấn đề khí hậu toàn cầu hay vấn đề khan hiếm lương thực trên thế giới. Điều đó giúp học viên có được một tầm nhìn rộng mở, bao quát
Ngoài Financial Times, có nhiều tổ chức khác như The Economist, Bloomberg, US News and World Reports, Business Insider hay Forbes cũng đưa ra các xếp hạng của riêng mình, tuy nhiên trọng số của các tiêu chí thành phần chênh lệch nhau khá nhiều. Trong các bảng xếp hạng đó, Financial Times và Bloomberg đặt khoảng 40% tỷ trọng vào lương sau khi tốt nghiệp trong khi The Economist chỉ tính 20% số điểm. Trên khía cạnh về chất lượng giảng viên, Financial Times tính 15% tỷ trọng trong khi The Economist chỉ tính có 8.8%. Forbes chỉ quan tâm đến 1 tiêu chí là lợi suất sinh lời từ chi phí cho việc học. US News and World Reports có tính đến cả khảo sát ý kiến lãnh đạo các trường kinh doanh đánh giá chéo nhau.[20]
Thứ hạng của các chương trình MBA đã được thảo luận trong các bài báo và trên các trang web học thuật.[21] Các nhà phê bình về phương pháp xếp hạng cho rằng bất kỳ bảng xếp hạng nào đã xuất bản đều nên được xem xét một cách thận trọng vì những lý do sau:[22]
Các bảng xếp hạng cho thấy sự thiên vị, thậm chí lựa chọn có chủ ý vì chúng giới hạn mẫu khảo sát ở một số lượng nhỏ các chương trình MBA và bỏ qua phần lớn các trường, nhiều trường có chất lượng xuất sắc.
Phương pháp xếp hạng có thể phụ thuộc vào thành kiến cá nhân và phương pháp thống kê thiếu sót (đặc biệt là các phương pháp dựa trên phỏng vấn chủ quan của người quản lý tuyển dụng, sinh viên hoặc giảng viên).
Xếp hạng không sử dụng thước đo khách quan về chất lượng chương trình.
Cùng trường có thể xuất hiện trong mỗi bảng xếp hạng với một số khác biệt về thứ hạng, vì vậy một trường được xếp hạng số 1 trong một danh sách này có thể đứng số 17 trong một danh sách khác.
Bảng xếp hạng có xu hướng tập trung vào việc đại diện cho chính các trường MBA, nhưng một số trường cung cấp các chương trình MBA có chất lượng khác nhau và xếp hạng sẽ chỉ dựa trên thông tin từ chương trình toàn thời gian (ví dụ: một trường có thể sử dụng giảng viên có uy tín cao để dạy chương trình ban ngày, nhưng sử dụng giảng viên hỗ trợ trong chương trình buổi tối hoặc có tiêu chí tuyển sinh thấp hơn đáng kể cho chương trình buổi tối so với chương trình ban ngày).
Một số trường kinh doanh hàng đầu bao gồm Harvard, INSEAD, Wharton và Sloan cung cấp hợp tác hạn chế với các ấn phẩm xếp hạng nhất định do họ cho rằng xếp hạng bị lạm dụng.[23]
^Kaplan, Andreas (2014). “European management and European business schools: Insights from the history of business schools”. European Management Journal. 32: 529–534. doi:10.1016/j.emj.2014.03.006.
^[http: //www.athabascau.ca/aboutau/history.php “Đại học Athabasca”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp).
^McIntyre, John R. và Ilan Alon, eds. (2005), Giáo dục kinh doanh và quản lý ở các nước đang chuyển đổi và đang phát triển: Sổ tay , Armonk, NY: ME Sharpe.
Ở Nazarick, có vô số con quái vật mà ai cũng biết. Tuy nhiên, nhiều người dường như không biết về những con quái vật này là gì, và thường nhầm chúng là NPC.