MS Rigel

Rigel và tàu hộ tống bị tấn công
Rigel (trái) và một tàu hộ tống (phải) bị tấn công
Lịch sử
Norway
Tên gọi MS Rigel
Đặt tên theo The star Rigel
Chủ sở hữu Bergen Steamship Company
Xưởng đóng tàu Burmeister & Wain, Copenhagen[1]
Số hiệu xưởng đóng tàu 326[1]
Trưng dụng Tháng 8 năm 1924[2]
Số phận Bị máy bay oanh tạc chìm ngày 27 tháng 11 năm 1944[2]
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu Cargo steamer
Dung tải
Chiều dài 367 ft 6 in (112,01 m)[2]
Sườn ngang 51 ft 6 in (15,70 m)[2]
Độ sâu 22 ft 6 in (6,86 m)[2]
Động cơ đẩy 2 × 6-cylinder B&W diesel engines, 2.076 ihp (1.548 kW)[2]
Tốc độ 11 hải lý trên giờ (20 km/h; 13 mph)[2]

MS Rigel là một tàu của Na Uy được đóng tại Copenhagen, Đan Mạch, vào năm 1924. Con tàu được sử dụng như một phương tiện vận chuyển tù binh của Đức trong Thế chiến thứ hai, và đã bị Không quân Anh oanh tạc đánh chìm ngoài khơi Na Uy vào ngày 27 tháng 11 năm 1944 với hơn 2.500 người chết, hầu hết là tù binh.

Lịch sử tàu

[sửa | sửa mã nguồn]

Rigel (3828 tấn) ban đầu là một tàu gắn động cơ thuộc sở hữu của Công ty Tàu hơi nước Bergen. Con tàu được đặt tên theo ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Orion. Chiếc tàu đã được trưng dụng bởi Chính quyền chiếm đóng của Đức ở Na Uy vào năm 1940 để vận chuyển Đồng minh.

Theo các nguồn tin Na Uy Rigel, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Heinrich Rhode cùng với một thủy thủ đoàn người Đức, đã lên đường dưới cờ Đức từ Bjerkvik vào ngày 21 tháng 11 năm 1944 mang theo 951 tù binh và 114 lính cai ngục. Tại Narvik, thêm 349 tù binh được đưa lên cộng với 95 lính đào ngũ Đức và 8 tù nhân Na Uy bị cảnh sát Đức bắt giữ. Sau đó, con tàu tiếp tục theo đoàn với một số tàu nhỏ hơn đến Tømmerneset, nơi có thêm 948 tù binh được đưa lên nhồi nhét vào các hầm hàng. Rigel được gọi tiếp theo tại cảng Bodø.[3]

Khi con tàu rời Bodø vào ngày 26 tháng 11, Thuyền trưởng Rhode báo cáo có 2838 người trên tàu. Có 2.248 tù binh Liên Xô, Ba Lan và Serbia với 95 lính đào ngũ Đức và 8 tù nhân Na Uy. Ngoài ra còn có 455 lính Đức và thủy thủ đoàn 29 chiếc bình thường cộng với 3 hoa tiêu ven biển. Một trong số các phi công và một thành viên phi hành đoàn là người Na Uy.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c “B&W ships list” (PDF). maritime-museum.dk (bằng tiếng Đan Mạch). 2012. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2012.[liên kết hỏng]
  2. ^ a b c d e f g Lawson, Siri Holm (2012). “M/S Rigel”. warsailors.com. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2012.
  3. ^ Asbjørn Jaklin, Historien om Nord-Norge, Gylendal Norsk Forlag, 2004, pp. 261–263
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Review] Soushuu Senshinkan Hachimyoujin: Common Route – First Impression
[Review] Soushuu Senshinkan Hachimyoujin: Common Route – First Impression
Là sản phẩm tiếp theo nằm trong Shinza Bansho của Masada sau Paradise Lost, Dies Irae, Kajiri Kamui Kagura
Mai - Khi tình yêu không chỉ đơn thuần là tình ~ yêu
Mai - Khi tình yêu không chỉ đơn thuần là tình ~ yêu
Cuộc đời đã khiến Mai không cho phép mình được yếu đuối, nhưng cũng chính vì thế mà cô cần một người đồng hành vững chãi
Gải mã các khái niệm cơ bản xoay quanh Jujutsu Kaisen - Chú thuật hồi chiến
Gải mã các khái niệm cơ bản xoay quanh Jujutsu Kaisen - Chú thuật hồi chiến
Điểm qua và giải mã các khái niệm về giới thuật sư một cách đơn giản nhất để mọi người không còn cảm thấy gượng gạo khi tiếp cận bộ truyện
Quân đội của Isengard - Chúa tể của những chiếc nhẫn
Quân đội của Isengard - Chúa tể của những chiếc nhẫn
Saruman là thủ lĩnh của Hội Đồng Pháp Sư, rất thông thái và quyền năng. Lẽ ra ông ta sẽ là địch thủ xứng tầm với Sauron