Nghĩa Quốc công 義國公 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng tử nhà Nguyễn | |||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 21 tháng 10 năm 1822 | ||||||||||||||||
Mất | 5 tháng 12 năm 1844 (22 tuổi) | ||||||||||||||||
An táng | Phường Thủy Biều, Huế | ||||||||||||||||
Hậu duệ | 2 con trai 1 con gái | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Thân phụ | Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng | ||||||||||||||||
Thân mẫu | An tần Hồ Thị Tùy |
Nguyễn Phúc Miên Tể (chữ Hán: 阮福綿宰; 21 tháng 10 năm 1822 – 5 tháng 12 năm 1844), tự là Trọng Chân (仲真), hiệu Tùng Thự (松墅)[1], tước phong Nghĩa Quốc công (義國公), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Hoàng tử Miên Tể sinh ngày 7 tháng 9 (âm lịch) năm Nhâm Ngọ (1822), là con trai thứ 18 của vua Minh Mạng, mẹ là Ngũ giai An tần Hồ Thị Tùy[2]. Hoàng tử là người con thứ ba của bà An tần. Khi ra ở phủ riêng, ông xem nhiều sách vở, thông thuộc kinh thư, có học hạnh. Ông là người khiêm tốn, biết giữ phép tắc[1].
Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), vua cho triệu 7 hoàng tử còn nhỏ tuổi chưa được phong tước vào chầu, trong đó có Miên Tể, sai làm thơ ngay trước mặt để vua xem học lực. Miên Tể và các hoàng tử Miên Vũ, Miên Bật, Miên Thủ lời thơ thông ý đều được gia thưởng; Miên Tích làm thơ chưa hợp cách, cũng châm chước cho qua; riêng hai hoàng tử Miên Thần, Miên Trữ đều bỏ giấy trắng, bị phạt 3 tháng lương[3]. Vua truyền chỉ quở mắng các thầy giảng tập của các hoàng tử, bắt từ nay phải chú tâm dạy dỗ, nếu các hoàng tử không được công trạng gì sẽ bị nghị tội không tha[3].
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ông được vua cha phong làm Tư Nghĩa Quận công (思義郡公)[4]. Cùng năm đó, vua cho đúc các con thú bằng vàng để ban thưởng cho các hoàng thân anh em, các hoàng tử công và hoàng tử chưa được phong tước. Quận công Miên Tể được ban cho một con hải mã bằng vàng nặng 6 lạng 9 đồng cân[5].
Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), Giáp Thìn, ngày 26 tháng 10 (âm lịch), quận công Miên Tể qua đời, hưởng dương 23 tuổi[2]. Mộ của ông được táng tại Nguyệt Biều (nay thuộc phường Thủy Biều, Huế), cạnh tẩm mộ của Phong Hòa Công chúa Nhu Thuận và Tương An Quận vương Miên Bảo; còn phủ thờ của ông được dựng ở phường Vĩnh Lợi, Huế[2].
Nghe tin ông mất, vua lấy làm thương tiếc, nghỉ chầu 3 ngày, ban 1000 quan tiền và các đồ khâm liệm, cho đi đường hầm để chôn, nơi nghỉ ngơi, quan tài các việc, truy tặng làm Nghĩa Quốc công (義國公), thụy là Cung Đạt (恭達)[1]. Vua sai Ninh Thuận công Miên Nghi, hoàng tử thứ tư của Minh Mạng, ban cho rượu tế và sai các quan đến tế cùng[1].
Tuy Lý vương Miên Trinh có làm bài văn viếng ông rằng[1]:
Ngoài quốc công Miên Tể, bà An tần còn sinh được thêm 2 hoàng tử và 1 hoàng nữ, là:
Quốc công Miên Tể có 2 con trai và 1 con gái. Ông được ban cho bộ chữ Thù (殳) để đặt tên cho các con cháu trong phòng[7]. Con trai trưởng của ông là công tử Hồng Hào, lúc đầu tập phong làm Đôn Nghĩa Đình hầu (敦義亭侯), sau vì có tội bị đoạt tước phong. Cháu nội của quốc công Miên Tể là Ưng Linh tập phong Tá quốc khanh (奉國卿)[1].