Bài viết này là một bài mồ côi vì không có bài viết khác liên kết đến nó. Vui lòng tạo liên kết đến bài này từ các bài viết liên quan; có thể thử dùng công cụ tìm liên kết. (tháng 6 năm 2016) |
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Web caching là việc lưu trữ bản sao của những tài liệu web sao cho gần với người dùng, cả về mặt chức năng trong web client hoặc những web caching servers riêng biệt.
Web caching là ứng dụng ở cấp độ routing, và phần lớn băng thông dùng cho web toàn bộ đường truyền có thể ảnh hưởng đến băng thông của hệ thống mạng (theo tín toán của UNINETT thì 50% băng thông dùng trong hệ thống mạng là dùng cho web)
ISPs – Những nhà cung cấp dịch vụ - thường thiết lập sẵn hệ thống kết nối ngang hàng với các ISPs khác trong cùng quốc gia (cấp độ quốc nội) hoặc ở các nước khác (cấp độ quốc tế). Web caching ảnh hưởng mạnh đến băng thông trên mạng. Các ISPs có thể tiết kiệm chi phí từ việc đưa ra những thỏa thuận với các ISP khác trên web caching, từ đó có thể theo sự thỏa thuận được thiết lập trên hệ thống ngang hàng và thay đổi đường truyền. Những chính sách trong quá trình hỗ trợ điều khiển web caching phải được phổ biến.
Những mạng lưới web cache (còn gọI là Web Cache Meshes) là việc kết hợp các servers với nhau thành một tổ chức mạng lưới Web caching đa cấp độ. Một mạng lưới có thể mở rộng một trường đại học, hoặc một mạng hay vài mạng máy tính. Cấp độ web cache đầu tiên trong mạng lưới có một hoặc nhiều neighbors và parents, việc không tìm thấy thông tin sẽ được giải quyết thông qua parents. Một yêu cầu cho một tài liệu không có trong cache sẽ được đưa đến các máy neighbors hoặc parents, sử dụng giao thức Internet Cache Protocol (ICP).
Có ba lợi ích quan trọng của web caching là:
Đồng thời, web caching làm cho web rẻ tiền hơn và tối ưu hơn.
Web cache được đặt giữa các Web Servers (hoặc các servers chính) và client (hoặc nhiều clients). Web cache theo dõi các yêu cầu của các trang HTML, các hình ảnh và các tập tin (có thể hiểu là các object – đối tượng) đưa ra bằng cách sao lưu lại một bản sao cho chính những đối tượng đó. Sau đó, nếu các một yêu cầu khác cho cùng một đối tượng, nó sẽ sử dụng bản sao đang có, thay vì phải hỏi lại server chính cho yêu cầu đó.
có ba loại web cache chính"
Nếu chúng ta khảo sát những chọn lựa ưa thích trong bất kỳ một Web browser hiện đại (như I.E, Safari hay Mozilla), nhiều khả năng bạn sẽ chọn thiết lập "cache". Nó cho phép bạn đặt riêng một phần ổ đĩa cứng trên máy tính của bạn để lưu trữ những gì mà bạn đã xem. Browser cache làm việc theo một quy luật đơn giản. nó sẽ kiểm tra những gì bạn đã xem được cập nhật hay chưa, thường là một phiên thông tin.
Cache này đặc biệt có ích khi ngườI dùng nhấn vào nút Back hoặc nhấn vào một liên kết đến 1 trang mà họ vừa mớI xem. Ngoài ra, nếu bạn sử dụng cùng các hình ảnh liên kết trong suốt một site, gần như ngay lập tức người dùng sẽ được đáp ứng từ caches của browser.
Web proxy cache làm việc cùng nguyên tắc với browser cache, nhưng ở phương diện rộng lớn hơn. Proxies đáp ứng hàng trăm hoặc hàng ngàn users cùng một cách thức; những tập đoàn lớn và IPS thường thiết lập chúng trên các firewalls, hoặc như một thiết bị độc lập (thường hiểu như là những phương tiện trung gian).
Bởi vì proxy cache không phải là một phần của client hay server chính, nhưng thay vì ra ngoài hệ thống mạng thì bằng cách này hay cách khác những yêu cầu phải được chuyển cho chúng. Một cách để thực hiện việc đó là sử dụng thiết lập proxy của browser để cho browser biết cần phải sử dụng proxy nào, hoặc sử dụng interception. Các interception proxies có các yêu cầu web chuyển đến cho chúng bởi chính hệ thống mạng, do đó clients không cần thiết phải cấu hình hoặc hiểu về nó.
Những proxy cache là một dạng của shared cache; nó không chỉ được sử dụng bởi một người, mà nó thường có một lượng lớn users, và bởi vì nó rất tốt cho việc giảm những nguy cơ tiềm ẩn và đường truyền mạng. Đó là lý do các thông tin lướt trên web tiết kiệm được nhiều thời gian.
Thường được biết đến như là "reverse proxy cache" hoặc "surrogate cache", gateway cache thường là đóng vai trò trung gian, nhưng thay vì được triển khai bởi nhà quản trị mạng để tiết kiệm băng thông, nó còn được triển khai bởi các Webmasters (nhà thiết kế, quản trị và bảo trì web site), để cho web site của họ có khả năng mở rộng, đáng tin cậy và tối ưu.
Các yêu cầu có thể chuyển đến gateway caches bởi nhiều phương thức, nhưng điển hình một số tổ chức cân bằng tải được dùng để tạo ra một hay nhiều phương thức cho server đến các clients.
Content delivery networks (CDNs) distribute gateway caches thông qua internet (hoặc một phần của nó) và bán caching cho những web sites được yêu thích. Speedera và Akamai là những ví dụ của CDNs.
Một hệ thống WebHint bao gồm "hint server" - nó sẽ tự động cập nhật thông tin được liên kết với các cache servers lân cận để giảm số gói tin được trao đổi giữa các cache servers và giảm thời gian đáp ứng cho người dùng cuối.
Ta cấu hình cache server như sau:Chúng ta thực hiện quyết định quản trị trong việc cấu hình cấu trúc cache. Khi có 5 cache servers và 2 hint servers trong hệ thống, việc cấu hình của host "cache2" trên hệ thống cache thông thường như sau
## hostname type HTTP/ICP port #cache_host cache1 sibling 3128 3130 #cache_host cache3 sibling 8000 8130 #cache_host cache4 sibling 3128 3130 #cache_host cache5 sibling 8888 3130
Việc cấu hình cache server trên hệ thống web hint tương tự như sau:
## hostname type HTTP/ICP port #cache_host hints1 hintserver 0 4649 #cache_host hints2 hintserver 0 4649
Quản lý như trên sẽ giảm nhiều thời gian cần thiết cho cấu hình ban đầu và quản trị thông thường. Khi một cache server mới được thêm vào, chúng ta thấy được hint server gộp các thông tin của chúng trong hint data và tất cả cache servers làm việc với nhau dưới hint server. Tương tự, khi cache server bị lỗi, hint server sẽ ngưng việc gộp thông tin của chúng sau một khoảng thời gian.
Một hệ thống WebHint bao gồm 4 phần:
Web caching là việc lưu trữ bản sao của những tài liệu web sao cho gần với người dùng, cả về mặt chức năng trong web client hoặc những web caching servers riêng biệt.
ISPs – Những nhà cung cấp dịch vụ - thường thiết lập sẵn hệ thống kết nối ngang hàng với các ISPs khác trong cùng quốc gia (cấp độ quốc nội) hoặc ở các nước khác (cấp độ quốc tế).
Những mạng lưới web cache (còn gọI là Web Cache Meshes) là việc kết hợp các servers với nhau thành một tổ chức mạng lưới Web caching đa cấp độ.
Có 3 ưu điểm của Web Caching là:
Web cache được đặt giữa các Web Servers (hoặc các servers chính) và client (hoặc nhiều clients).
Có 3 loạI web caches chính:
Với ISA chúng ta có thể thực hiện hai cơ chế caching:
Việc cấu hình Web Caching bằng ISA cần được thực hiện các động tác sau:
Một số lưu ý khi cấu hình Cache Clients:
(first level Web Cache)