Jamila Lunkuse

Ở ngõ 4 (ngay trên ảnh) ở Kazan 2015

Jamila Lunkuse (sinh ngày 01 tháng 1 năm 1997 [1]) là một vận động viên bơi lội người Uganda. Cô đã tham gia cuộc thi tự do 50m nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2012London, kết thúc với thời gian 28,44 giây ở vị trí thứ 52 trong lượt bơi.[2]. Cô cũng đại diện cho Uganda tại Thế vận hội Rio 2016 [3].

Giáo dục và hoàn cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Jamila Lunkuse là một trong 4 đứa trẻ sinh ra từ Yusuf và Janat Nansubuga Nsibambi [4]. Ông đã gia nhập Plymouth College vào năm 2013 [5] bằng học bổng thể thao trước khi theo học Đại học Brighton để học Kinh doanh và Tiếp thị [5][6].

Thành tựu nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2013, Jamila Lunkuse đã giành được 8 huy chương tại Giải vô địch bơi lội khu vực CANA 3 và 4 được tổ chức tại Lusaka, Zambia [7]. Jamila giành được 7 huy chương vàng trong 50m ngực (kỷ lục thi đấu), 100m ngực, 200m ngực, 100m tự do, 200m tự do, 50m bướm và 200m. Huy chương bạc của cô là ở nội dung 50m tự do [8].

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 2013 - Hiệp hội báo chí thể thao của tháng Rwenzori Uganda (tháng 4) [9]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kyeyune, Darren Allan (ngày 1 tháng 6 năm 2013). “Lunkuse dad hails USPA, calls for more support”. Kawowo Sports (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2019.
  2. ^ “Jamila Lunkuse”. Sports Reference LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  3. ^ “Uganda's team to the Rio 2016 Olympics”. www.newvision.co.ug. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.
  4. ^ Kiggundu, Edris. “Yusuf Nsibambi: the lawyer, lecturer, businessman defined by hard work”. The Observer - Uganda (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2019.
  5. ^ a b “StackPath”. www.plymouthcollege.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2019.
  6. ^ App, Daily Monitor. “Lunkuse hopes to get back into Rio groove”. mobile.monitor.co.ug (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2019.
  7. ^ Editor, Online. “Uganda to Host Cana 2014 | Lusaka Voice” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  8. ^ “StackPath”. www.plymouthcollege.com. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.
  9. ^ “Jamila Lunkuse is the toast of April”. www.newvision.co.ug. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]