Jerzy Zawieyski

Jerzy Zawieyski
SinhHenryk Nowicki
(1902-10-02)2 tháng 10, 1902
Radogoszcz, Chính quyên Piotrków, Vương quốc Lập hiến Ba Lan
Mất18 tháng 6, 1969(1969-06-18) (66 tuổi)
Warszawa, Ba Lan
Nghề nghiệpnhà văn, nhà viết kịch, nhà hoạt động chính trị
Năm hoạt động1921 – 1968

Jerzy Zawieyski, tên khai sinh là Henryk Nowicki, (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1902, Radogoszcz thuộc Chính quyền Piotrków, mất ngày 18 tháng 6 năm 1969, Warszawa) là nhà viết kịch người Ba Lan, nhà văn thể loại văn xuôi, nhà hoạt động chính trị Công giáo và diễn viên sân khấu nghiệp dư. Ông viết tiểu thuyết tâm lý, xã hội, đạo đức và lịch sử, phim truyền hình, truyện, tiểu luận và tạp chí.

Ông là nhà hoạt động của Đoàn Thanh niên Nông thôn Cộng hòa Ba Lan (Związek Młodzieży Wiejskiej Rzeczypospolitej Polskiej.). Trong thời kỳ Đức chiếm đóng Ba Lan, ông hoạt động tích cực trong phong trào văn hóa bí mật.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Mộ của Jerzy Zawieyski và bạn đời Stanisław Trębaczkiewicz.

Năm 1921, Zawieyski bắt đầu viết thơ (Strzępy) dưới bút danh Konar-Nowicki. Năm 1926, ông tốt nghiệp trường Kịch ở Kraków. Từ năm 1926 đến năm 1928, ông là diễn viên tại Nhà hát Reduta và là biên tập viên của tạp chí Teatr Ludowy. Từ năm 1929 đến năm 1931, ông ở Pháp và làm hướng dẫn viên cho các đoàn kịch nghiệp dư Polonia. Sau khi trở lại Ba Lan, ông làm giám đốc Instytut Teatrów Ludowych (Viện Nhà hát Văn hóa Dân gian), diễn viên Nhà hát Ataneum đến năm 1939. Thời trẻ, Zawieyski là một người vô thần, đến năm 1930 ông đi theo Công giáo.[1]

Sau Thế chiến thứ hai, Zawieyski làm giảng viên tại Đại học Công giáo Lublin (Katolicki Uniwersytet Lubelski, KUL). Ông là người đồng sáng lập Klub Inteligencji Katolickiej và làm chủ tịch cho đến năm 1957. Ông là thành viên của ban biên tập Tygodnik Powszechny (1946-1952, 1956) và tạp chí Znak (1946-1951, từ năm 1957). Năm 1957-1969, ông là thành viên của Sejm Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Năm 1957–1968, ông là thành viên của Hội đồng Nhà nước Ba Lan.

Zawieyski là người đồng tính. Năm 1933, ông gặp Stanisław Trębaczkiewicz. Họ yêu nhau và chung sống với nhau cho đến khi Zawieyski qua đời vào năm 1969. Theo nguyện vọng, sau khi qua đời, thi hài của họ được chôn cất trong cùng một ngôi mộ ở Nghĩa trang Laski gần Warszawa.[2]

Tác phẩm nổi tiếng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn
  1. ^ Stehle, Hansjakob (1963). Nachbar Polen. Frankfurt am Main: S. Fischer. tr. 135.
  2. ^ Tomasik, Krzysztof. “Wielcy i niezapomniani: Jerzy Zawieyski”. innastrona.pl (bằng tiếng Ba Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2007.
Sách

Tài liệu đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Baliwszewski, Dariusz (2005). “Upadek z wysokości”. Wprost 24 (bằng tiếng Ba Lan). Agencja Wydawniczo-Reklamowa "Wprost" (26/2005 (1178)). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2008.
  • Baranowicz, Jan; và đồng nghiệp (1958). Kredą na tablicy. Wspomnienia z lat szkolnych (bằng tiếng Ba Lan). Warsaw: Czytelnik. OCLC 16969597.
  • Brandys, Marian (1983). Z dwóch stron drzwi (bằng tiếng Ba Lan). Warsaw: Oficyna WE (Wydawnictwo Enklawa). OCLC 69552002.
  • Brudnicki, Jan Z. (1985). Jerzy Zawieyski (bằng tiếng Ba Lan) (ấn bản thứ 1). Warsaw: Państwowy Instytut Wydawniczy. ISBN 83-06-01205-4. OCLC 14106350.
  • Kluźniak, Malina biên tập (2000). "Niesie mnie rzeka smutku..." Korespondencja między Jerzym Zawieyskim a Zofią Nałkowską 1943-1954 (bằng tiếng Ba Lan). Warsaw: Biblioteka Narodowa. ISBN 83-7009-268-3. OCLC 45611238.
  • Kulesza, Dariusz (1999). Tragedia ukrzyżowana. Dramaty chrześcijańskie Romana Brandstaettera i Jerzego Zawieyskiego (bằng tiếng Ba Lan). Białystok: Wydawnictwo Uniwersytetu w Białymstoku. ISBN 83-87884-14-6. OCLC 42894667.
  • Urbankowski, Bohdan biên tập (1995). Stwarzanie światów. Antologia współczesnego dramatu polskiego (bằng tiếng Ba Lan). Warsaw: Wydawnictwa Szkolne i Pedagogiczne. ISBN 83-02-05614-6. OCLC 69352036.