"Sha-La-La-La-La" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Walkers từ album Greatest Hits | ||||
Mặt B | "High School Queen" | |||
Phát hành | 30 tháng 3 năm 1973 | |||
Thu âm | 1973 | |||
Thể loại | Pop | |||
Thời lượng | 3:00 | |||
Hãng đĩa | Philips Interfusion Sunburst | |||
Sáng tác | Torben Lendager, Poul Dehnhardt | |||
Thứ tự đĩa đơn của Walkers | ||||
|
"Sha-La-La-La-La" là một bài hát của nhóm nhạc Đan Mạch Walkers nằm trong album tuyển tập của họ, Greatest Hits (1976). Nó được phát hành vào ngày 30 tháng 3 năm 1973 bởi Philips Records, và đạt vị trí thứ hai ở Đan Mạch. Bài hát đã được hát lại bởi một số nghệ sĩ, trong đó nổi bật nhất là bản hát lại của nhóm nhạc Eurodance Hà Lan Vengaboys cho album phòng thu thứ hai của họ, The Platinum Album (2000), đã gặt hái nhiều thành công vượt trội về mặt thương mại.
Bảng xếp hạng (1973) | Vị trí cao nhất |
---|---|
Đan Mạch (Tracklisten)[2] | 2 |
"Shalala Lala" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Vengaboys từ album The Platinum Album và The Little Vampire: Music from and Inspired by Motion Picture | ||||
Mặt B | "48 Hours" | |||
Phát hành | 23 tháng 2 năm 2000 | |||
Thu âm | 1999 | |||
Thể loại | Eurodance, dance-pop | |||
Thời lượng | 3:33 | |||
Hãng đĩa | Breakin' | |||
Sáng tác | Torben Lendager, Poul Dehnhardt | |||
Sản xuất | Danski & DJ Delmundo | |||
Thứ tự đĩa đơn của Vengaboys | ||||
| ||||
Video âm nhạc | ||||
"Shalala Lala" trên YouTube |
Năm 2000, nhóm nhạc Eurodance Hà Lan Vengaboys đã hát lại nó cho album phòng thu thứ hai của họ, The Platinum Album, với tiêu đề mới "Shalala Lala". Nó được phát hành vào ngày 23 tháng 2 năm 2000 như là đĩa đơn thứ hai trích từ album bởi Breakin' Records. Đây là một bản Eurodance và dance-pop được sản xuất bởi Danski & DJ Delmundo, cộng tác viên quen thuộc xuyên suốt sự nghiệp của họ.
Sau khi phát hành, phiên bản của Vengaboys nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, nhưng gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại. Đây được xem là bài hát thành công nhất của họ trên các bảng xếp hạng kể từ "Boom, Boom, Boom, Boom!!", đạt vị trí số một ở New Zealand và Rumani, và lọt vào top 5 ở nhiều quốc gia như Úc, Áo, Bỉ (Flanders), Đức, Ireland, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, cũng như vươn đến top 10 ở hầu hết những thị trường nó xuất hiện.
Một video ca nhạc cho "Shalala Lala" đã được phát hành, trong đó tập trung vào giọng ca chính Kim Sasabone, bên cạnh những vũ công trong trang phục dirndl và lederhosen. Để quảng bá bài hát, nhóm đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình như Top of the Pops, CD:UK và Pepsi Live. Nó cũng xuất hiện trong nhiều album tổng hợp và phối lại của Vengaboys, bao gồm Greatest Hits (2009) và Xmas Party Album (2014).
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Úc (ARIA)[39] | Vàng | 35.000^ |
Áo (IFPI Áo)[40] | Bạch kim | 50.000* |
Bỉ (BEA)[41] | Vàng | 0* |
Đức (BVMI)[42] | Vàng | 250.000^ |
New Zealand (RMNZ)[43] | 3× Bạch kim | 30.000* |
Thụy Điển (GLF)[44] | Vàng | 15.000^ |
Thụy Sĩ (IFPI)[45] | Vàng | 25.000^ |
Anh Quốc (BPI)[46] | Bạc | 200.000^ |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Những phiên bản khác của bài hát được thu âm bởi ban nhạc pop Anh quốc Dreamhouse và trở thành một bản hit ở Đông Nam Á vào năm 1998, bởi ban nhạc Hồng Kông The Wynners vào năm 1974, và bởi ban nhạc pop Estonia Meie Mees.
|ngày truy cập=
và |archivedate=
(trợ giúp)