Small Wonder | |
---|---|
Thể loại | |
Sáng lập | Howard Leeds |
Đạo diễn | |
Diễn viên | |
Nhạc phim |
|
Nhạc dạo | "She's a Small Wonder" |
Nhạc kết | "She's a Small Wonder" |
Soạn nhạc | George Greeley Ed Lojeskie |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Số mùa | 4 |
Số tập | 96 (Danh sách chi tiết) |
Sản xuất | |
Giám chế | Howard Leeds |
Nhà sản xuất | Budd Grossman Bruce Taylor |
Bố trí camera | Nhiều góc máy |
Thời lượng | 22 phút |
Đơn vị sản xuất |
|
Trình chiếu | |
Kênh trình chiếu tại Việt Nam | Box Hits |
Định dạng hình ảnh | NTSC |
Định dạng âm thanh | Monaural |
Phát sóng | 7 tháng 9 năm 1985 | – 20 tháng 5 năm 1989
Small Wonder là một bộ phim truyền hình hài kịch tình huống và hài khoa học viễn tưởng thiếu nhi của Mỹ được phát sóng lần đầu từ ngày 7 tháng 9 năm 1985 đến ngày 20 tháng 5 năm 1989. Bộ phim xoay quanh gia đình của một kỹ sư chế tạo người máy, anh đã chế ra một người máy có hình hài của một bé gái, đặt tên là Vicki và cố giấu nó dưới danh tính con gái nuôi của họ. Bộ phim này đã bất ngờ trở nên ăn khách, đặc biệt là đối với phân khúc đối tượng thiếu nhi, khi nhiều kênh thuộc các quốc gia khác nhau chiếu lại bộ phim. Do nổi tiếng ở một số quốc gia nên bộ phim đã được lồng tiếng bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Truyện phim xoay quanh VICI (từ viết tắt của Voice Input Child Identicant, phát âm là "Vicki"), một android trong hình dạng một bé gái 10 tuổi. Vicki được chế tạo bởi Ted Lawson (một kỹ sư kiêm nhà phát minh của United Robotronics) nhằm hỗ trợ trẻ em khuyết tật. Lawson đưa con robot về nhà để nó trưởng thành trong môi trường gia đình. Các tính năng của Vicki bao gồm sức mạnh và tốc độ siêu phàm, ổ cắm điện xoay chiều dưới cánh tay phải, cổng dữ liệu dưới cánh tay trái và bảng điều khiển truy cập ở sau lưng. Mặc dù vậy, gia đình Lawson ban đầu giấu Vicki bằng cách xem nó là một bé gái mồ côi mà họ nhận nuôi hợp pháp làm con gái.
Gia đình Lawson cố giữ bí mật về sự tồn tại của con robot, nhưng những người hàng xóm khó ưa của họ là gia đình Brindle cứ xuất hiện vào những thời điểm bất ngờ nhất — đặc biệt là cô bé hàng xóm tọc mạch Harriet, bên cạnh người cha là đồng nghiệp của Ted Lawson. Sự hài hước của bộ phim thường bắt nguồn từ việc Vicki cố học theo hành vi con người, chứng nhại chưa từng có của cô bé, cách con robot diễn giải lời nói theo nghĩa đen và những nỗ lực việc che giấu bản chất thực sự của robot từ phía gia đình Lawson.
Để giải thích cho sự lớn lên của nữ diễn viên nhí Tiffany Brissette trong suốt bộ phim, các nhà sản xuất loạt phim đã để Ted nâng cấp Vicki trong mùa phim thứ ba. Anh làm cho khuôn mặt của cô bé trông già đi, để cô mặc những bộ quần áo hiện đại và cho phép cô ăn uống. Thức ăn đi qua cơ thể cô một cách tự nhiên còn đồ uống làm mát hệ thống nội tạng của cô.
Nhà sáng tạo của bộ phim là ông Howard Leeds, tác giả kịch bản của những phim như Bewitched và The Brady Bunch. Ông còn viết kịch bản cho My Living Doll, một bộ phim truyền hình cũng xoay quanh một robot nữ (do Julie Newmar đóng). Leeds đã vay mượn tiền đề của phim này để đưa vào Small Wonder.[1]
Theo Pennington (diễn viên thủ vai Joan Lawson) chia sẻ, vai diễn Vicki thực sự là một thử thách khó với bất kì diễn viên nào: không chỉ làm "tâm điểm" của chương trình và luôn diện bộ váy tạp dề đỏ trắng đặc trưng của mình, mà còn phải luôn nói giọng đều đều và không bộc lộ bất kì cảm xúc nào. Cô cho rằng vai diễn gây nhiều khó khăn cho Brissette: "Tôi biết cô bé bực bội vì không thể mặc đồ khác và phải nói bằng giọng đều đều. Đó là một nỗi thất vọng lớn với cô ấy. Song cô bé lại là một người chuyên nghiệp."[3] Đoàn phim cũng có những cảnh quay làm khó Brissette với những hiệu ứng đặc biệt, chẳng hạn như khi đầu Vicki xoay vòng hay việc cô bé dễ dàng nhấc bổng Jamie khỏi ghế bằng một tay để hút bụi dưới chân cậu. Theo Schulman (diễn viên đóng Harriet): "Tiffany một lần nữa phải chịu đựng. [Vì] những cảnh này mất rất nhiều thử nghiệm và sai sót." Ở đằng sau hậu trường, mặc dù các diễn viên rất hợp nhau như "một gia đình lớn", nhưng cha mẹ của các diễn viên nhí thì không. Schulman kể rằng đoàn phim đã phải thuê 3 giám hộ, vì cha mẹ họ không đồng ý chỉ có một giám hộ.[3]
Sau khi bộ phim kết thúc, phim được tái phát sóng đồng bộ vào các ngày trong tuần trên nhiều đài trên khắp Hoa Kỳ và tiếp tục cho đến năm 1996. Sau đó, bộ phim không được phát sóng ở bất kỳ đâu trên toàn quốc cho đến ngày 10 tháng 1 năm 2015, khi Antenna TV bắt đầu phát sóng bộ phim vào cuối tuần, kéo dài đến ngày 27 tháng 5 năm 2017. Kênh này tiếp tục phát sóng chương trình vào ngày 9 tháng 9 năm 2017.
Ở châu Âu, bộ phim được trình chiếu theo khu vực tại Vương quốc Anh trên ITV từ tháng 10 năm 1985 đến cuối năm 1988 (chỉ có hai mùa được chiếu). Sky One cũng phát sóng toàn bộ loạt phim từ năm 1988 đến đầu thập niên 1990. Ở Ý, bộ phim xuất hiện vào giữa thập niên 1980 trên kênh Italia 1 và có tựa đề Super Vicky.[6] Ở Pháp, bộ phim được chiếu dưới nhan đề La Petite merveille[7] trên Canal+, bắt đầu từ tháng 11 năm 1985. Ở Tây Ban Nha, phim lên sóng trên Antena 3 Televisión với tên Un robot en casa (hay La pequeña maravilla)[8] vào tháng 12 năm 1995. Ở Đức, tác phẩm được phát sóng trên ProSieben vào năm 1990 (với một số lần phát lại vào đầu thập niên 1990) và có tựa đề là Vicki.
Tác phẩm còn được phát sóng trên nhiều đài truyền hình ở Trung Đông, chẳng hạn như Saudi TV Channel 2 và Iraq TV Channel 1, với phụ đề tiếng Ả Rập và nhan đề là الاعجوبة الصغيرة. Ở Ả Rập Saudi vào thập niên 80, phim được phát sóng hàng ngày trong tháng Ramadan trên kênh truyền hình Saudi TV (Kênh 2).
Ở Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc và các nước châu Á khác, Small Wonder được phát sóng trên các đài truyền hình địa phương và Star TV Network vào giữa thập niên 1990. Năm 1994, phim lần đầu được phát sóng ở Ấn Độ trên Star Plus bằng tiếng Anh, sau đó bằng tiếng Hindi trong cùng năm đó, cho đến năm 1998 và bằng tiếng Tamil trên Star Vijay vào đầu những năm 2000. Tác phẩm được phát sóng ở Pakistan trên Network Television Marketing. Năm 1986, phim được phát sóng ở Thái Lan trên Kênh 9 lúc 9 giờ chiều sau bản tin buổi tối.[9] Ở Philippines, phim được phát sóng trên GMA Network vào giữa thập niên 1980 và trên ABC vào năm 1992. Ở Indonesia, phim được phát sóng trên TVRI. TVNZ là đơn vị chiếu bộ phim ở New Zealand vào khung giờ chiều các ngày trong tuần vào giữa thập niên 1980.
Shout! Factory là đơn vị phát hành hai mùa phim đầu tiên của Small Wonder trên DVD ở Vùng 1.[10][11]
Tên DVD | Số tập | Vùng 1 |
---|---|---|
The Complete First Season | 24 | 16 tháng 2 năm 2010 |
The Complete Second Season | 24 | 22 tháng 6 năm 2010 |
Mặc dù được người xem yêu thích,[12][13] song tác phẩm bị một số nhà phê bình coi là một trong những bộ hài kịch tình huống tệ nhất mọi thời đại. Robert Bianco (nhà phê bình truyền hình của USA Today) liệt phim là ứng viên cho một trong những chương trình truyền hình tệ nhất mọi thời đại. vào năm 2002.[14] Theo BBC, Small Wonder "được nhiều người xem là một trong những bộ phim hài kịch tình huống kinh phí thấp tệ nhất mọi thời đại."[15] Năm 2023, khi bộ phim kinh dị M3GAN ra rạp, một số ấn phẩm đã liên hệ bộ phim này tới Small Wonder.[1][16]
Bộ phim đã nhận được tổng cộng 14 đề cử của Young Artist Award và đoạt hai giải cho nữ diễn viên Emily Schulman.
Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Các đề cử | Kết quả | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
1985 | Young Artist Award | Phim truyền hình mới - hài hoặc chính kịch xuất sắc nhất | Small Wonder | Đề cử | [17] |
Nam diễn viên nhí trong phim truyền hình mới - hài hoặc chính kịch xuất sắc nhất | Jerry Supiran | Đề cử | |||
Nữ diễn viên nhí trong phim truyền hình mới - hài hoặc chính kịch xuất sắc nhất | Tiffany Brissette | Đề cử | |||
Nữ diễn viên nhí phụ trong phim truyền hình mới - hài hoặc chính kịch xuất sắc nhất | Emily Schulman | Đoạt giải | |||
1986 | Nam diễn viên nhí xuất sắc trong phim truyền hình hài hoặc chính kịch | Jerry Supiran | Đề cử | [18] | |
Nữ diễn viên nhí xuất sắc trong phim truyền dài tập: hài hoặc chính kịch | Emily Schulman | Đoạt giải | |||
Nữ diễn viên nhí xuất sắc trong phim truyền hình hài hoặc chính kịch | Tiffany Brissette | Đề cử | |||
1987 | Nam diễn viên nhí xuất sắc trong phim truyền hình hài | Jerry Supiran | Đề cử | [19] | |
Nữ diễn viên nhí xuất sắc trong phim truyền hình hài | Emily Schulman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên nhí khách mời xuất sắc trong phim truyền hình hài | Tiffany Ashley | Đề cử | |||
1989 | Phim truyền hình chính kịch hoặc hài gia đình đồng bộ xuất sắc nhất | Small Wonder | Đề cử | [20] | |
Nữ diễn viên nhí xuất sắc nhất trong chương trình truyền hình gia đình đồng bộ | Emily Schulman | Đề cử | |||
Tiffany Brissette | Đề cử | ||||
Nam diễn viên nhí xuất sắc nhất trong chương trình truyền hình gia đình đồng bộ | Paul C. Scott | Đề cử |