Đau lưng dưới

Đau lưng dưới
Đau lưng dưới là phàn nàn thường gặp.
Khoa/NgànhPhẫu thuật chỉnh hình, Khoa thấp khớp, thuốc phục hồi chức năng
Khởi phát20 đến 40 tuổi[1]
Diễn biến~65% có tiến triển tốt trong 6 tuần[2]
LoạiCấp tính (dưới 6 tuần), tiểu mãn tính (6 đến 12 tuần), mãn tính (hơn 12 tuần)[3]
Nguyên nhânNguyên nhân cơ bản không rõ ràng[1][4]
Phương pháp chẩn đoánHình ảnh y khoa (nếu có các tín hiệu cảnh báo)[5]
Điều trịTiếp tục vận động bình thường, chữa trị không dùng thuốc, NSAIDs[2][6]
Dịch tễ~25% trong bất kỳ tháng nào[7][8]

Đau lưng dưới (tiếng Anh: lower back pain) hay đau thắt lưng là những cơn đau xuất hiện ở vùng ngang thắt lưng, cơn đau có thể kéo xuống mông và chân.

Cơn đau có thể thay đổi từ một cơn đau liên tục đến một cảm giác nhói đột ngột.[4] Đau lưng dưới có thể được phân loại theo thời gian cấp tính (đau kéo dài dưới 6 tuần), nửa mãn tính (6 đến 12 tuần) hoặc mãn tính (hơn 12 tuần).[3] Tình trạng này có thể được phân loại thêm bởi nguyên nhân cơ bản là đau cơ học, phi cơ học hoặc đau ở vị trí khác.[5] Các triệu chứng đau lưng dưới thường được cải thiện trong vòng vài tuần kể từ thời điểm bắt đầu, với 40-90% người hoàn toàn khỏe hơn sau 6 tuần.[2]

Trong hầu hết các cơn đau lưng dưới, một nguyên nhân cơ bản cụ thể không được xác định, với cơn đau được cho là do các vấn đề cơ học như căng cơ hoặc khớp.[1][4] Nếu cơn đau không biến mất với điều trị bảo thủ hoặc nếu nó đi kèm với các "tín hiệu đỏ" như giảm cân không rõ nguyên nhân, sốt hoặc các vấn đề quan trọng với cảm giác hoặc cử động, có thể cần thử nghiệm thêm để tìm một nguyên nhân cơ bản nghiêm trọng.[5] Trong hầu hết các trường hợp, các công cụ hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính X-quang không hữu ích và mang theo những rủi ro riêng của chúng.[9][10] Mặc dù vậy, việc sử dụng hình ảnh y khoa trong đau lưng dưới đã tăng lên.[11] Một số cơn đau lưng dưới là do đĩa đệm bị hư hỏng, và xét nghiệm nâng chân thẳng là hữu ích để xác định nguyên nhân này.[5] Ở những người bị đau mãn tính, hệ thống xử lý cơn đau có thể bị trục trặc, gây ra đau đớn rất nhiều chỉ để đáp ứng với các sự kiện không nghiêm trọng.[12]

Điều trị ban đầu nên dùng các phương pháp điều trị không dùng thuốc. Nếu các cách này không đủ hiệu quả, có thể dùng các thuốc chống viêm không steroid.[6] Cần tiếp tục vận động bình thường ở mức tối đa có thể.[2] Có một số lựa chọn khác cho những người không cải thiện với điều trị thông thường. Thuốc giảm đau nhóm opioid có thể hữu ích nếu thuốc giảm đau đơn giản là không đủ, nhưng chúng thường không được khuyến cáo do tác dụng phụ.[4][13] Phẫu thuật có thể có lợi cho những người bị đau mãn tính và khuyết tật liên quan đến đĩa đệm hoặc hẹp cột sống.[14][15] Đau lưng dưới thường ảnh hưởng đến tâm trạng, có thể được cải thiện bằng cách tư vấn tâm lý hoặc dùng thuốc chống trầm cảm.[13][16]

Khoảng 9 đến 12% số người có bệnh đau lưng dưới tại bất kỳ thời điểm nào, và gần 25% báo cáo có bệnh ở một thời điểm nào đó trong khoảng thời gian một tháng.[7][8] Khoảng 40% số người mắc bệnh đau lưng dưới ở một số thời điểm trong cuộc sống của họ,[7] với ước tính cao tới 80% trong số những người ở các nước phát triển.[17] Khó khăn khi vận động thường bắt đầu từ 20 đến 40 tuổi.[1] Đàn ông và phụ nữ bị ảnh hưởng như nhau.[4] Đau lưng dưới phổ biến hơn ở những người trong độ tuổi 40–80, với tổng số cá nhân bị ảnh hưởng dự kiến sẽ gia tăng khi dân số già đi.[7]

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đau lưng cấp tính: Cơn đau kéo dài dưới 12 tuần.
  • Đau lưng bán cấp tính: Cơn đau từ 6-12 tuần.
  • Đau lưng mãn tính: Những cơn đau kéo dài trên 12 tuần.

Dấu hiệu và triệu chứng

[sửa | sửa mã nguồn]

Triệu chứng đau cấp tính có thể xuất hiện khi thực hiện các động tác mang, vác di chuyển sai tư thế. Cơn đau có thể xuất hiện ngay sau khi bạn thực hiện các động tác trên, hoặc khi thức dậy vào sáng hôm sau. Triệu chứng đau có thể xảy ra ở một vị trí cụ thể hoặc toàn vùng lưng dưới. Tình trạng có thể xấu đi khi thực hiện các chuyển động như nâng chân, thay đổi vị trí, ngồi hoặc đứng. Đau lan tỏa xuống chân (gọi là đau thần kinh tọa). Các cơn đau lưng dưới cấp tính thường xuất hiện ở độ tuổi từ 20 đến 40. Đây thường là lý do đầu tiên để gặp chuyên gia y tế ở người trưởng thành. Các đợt tái phát xảy ra ở hơn một nửa số người mắc bệnh, các lần sau thường đau hơn lần đầu.

Đau lưng dưới mãn tính có liên quan đến các vấn đề về giấc ngủ, bao gồm: Thời gian cần để chìm vào giấc ngủ, rối loạn giấc ngủ, giấc ngủ ngắn và ngủ không đủ giấc. Ngoài ra, phần lớn những người bị đau lưng mãn tính đều có triệu chứng trầm cảm hoặc lo lắng.

Nguyên nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh lý bệnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu trúc lưng

[sửa | sửa mã nguồn]

Vùng thắt lưng (hoặc lưng dưới) được tạo thành từ năm đốt sống (L1-L5), đôi khi bao gồm xương sống. Ở giữa các đốt sống này là đĩa đệm, ngăn ngừa sự cọ xát giữa các đốt sống trong khi vẫn bảo vệ tủy sống. Dây thần kinh đi qua các lỗ hở cụ thể giữa đốt sống, cung cấp cho da cảm giác và truyền thông điệp đến cơ bắp. Tính ổn định của cột sống được đảm bảo bởi các dây chằng và cơ ở lưng và bụng. Các khớp nhỏ được gọi là các khớp xương giới hạn và định hướng chuyển động của cột sống.[18]

Các bó cơ chạy lên và xuống dọc theo phía sau của cột sống, có vai trò rất quan trọng giữ cho cột sống thẳng và ổn định trong nhiều chuyển động thông thường như ngồi, đi và nâng.[12] Vấn đề của các cơ này thường được tìm thấy ở những người đau lưng mãn tính, bởi vì cơn đau lưng khiến người đó sử dụng các cơ lưng không đúng cách trong việc cố gắng tránh cơn đau.[19] Vấn đề với các bó cơ vẫn tiếp tục ngay cả sau khi cơn đau biến mất, và có lẽ là một lý do quan trọng khiến cơn đau trở lại.[19] hướng dẫn cho những người bị đau lưng mãn tính về cách sử dụng các cơ này được khuyến khích như là một phần của chương trình phục hồi.[19]

Một đĩa đệm gồm có một lõi keo ở giữa và được bao quanh bởi một vòng sợi.[20] Khi ở trạng thái bình thường, không bị tổn thương, hầu hết các đĩa đệm này không được phục vụ bởi hệ thống tuần hoàn hoặc thần kinh - máu và dây thần kinh chỉ chạy ra bên ngoài đĩa.[20] Các tế bào chuyên biệt có thể tồn tại mà không cần cung cấp máu trực tiếp nằm ở bên trong đĩa.[20] Theo thời gian, các đĩa mất đi tính linh hoạt và khả năng hấp thụ các lực vật lý.[21] Khả năng xử lý các lực vật lý bị suy giảm làm tăng áp lực lên các bộ phận khác của cột sống, khiến cho các dây chằng dày lên và tăng trưởng xương trên đốt sống.[21] Kết quả là, có ít không gian để tủy sống và rễ thần kinh có thể đi qua.[21] Khi đĩa bị thoái hóa do chấn thương hoặc bệnh tật, cấu trúc của đĩa đệm sẽ thay đổi: đĩa đệm có thể bị thoát ra ngoài chèn ép lên rễ thần kinh.[20] Bất kỳ thay đổi nào trong số này có thể dẫn đến đau lưng.[20]

Điều trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Muốn điều trị dứt điểm chứng đau lưng dưới. Trước tiên cần phải xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh. Từ đó sẽ có biện pháp điều trị phù hợp nhất. Trong trường hợp nguyên nhân gây đau lưng dưới là các bệnh lý, cần điều trị các bệnh lý này trước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Casazza, BA (ngày 15 tháng 2 năm 2012). “Diagnosis and treatment of acute low back pain”. American Family Physician. 85 (4): 343–50. PMID 22335313.
  2. ^ a b c d Menezes Costa Lda, C; Maher, CG; Hancock, MJ; McAuley, JH; Herbert, RD; Costa, LO (ngày 7 tháng 8 năm 2012). “The prognosis of acute and persistent low-back pain: a meta-analysis”. CMAJ: Canadian Medical Association Journal. 184 (11): E613–24. doi:10.1503/cmaj.111271. PMC 3414626. PMID 22586331.
  3. ^ a b Koes BW, van Tulder M, Lin CW, Macedo LG, McAuley J, Maher C (Tháng 12 năm 2010). “An updated overview of clinical guidelines for the management of non-specific low back pain in primary care”. European Spine Journal. 19 (12): 2075–94. doi:10.1007/s00586-010-1502-y. PMC 2997201. PMID 20602122.
  4. ^ a b c d e “Low Back Pain Fact Sheet”. National Institute of Neurological Disorders and Stroke. ngày 3 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2016.
  5. ^ a b c d Manusov EG (Tháng 9 năm 2012). “Evaluation and diagnosis of low back pain”. Prim. Care. 39 (3): 471–9. doi:10.1016/j.pop.2012.06.003. PMID 22958556.
  6. ^ a b Qaseem, A; Wilt, TJ; McLean, RM; Forciea, MA; Clinical Guidelines Committee of the American College of, Physicians. (ngày 4 tháng 4 năm 2017). “Noninvasive Treatments for Acute, Subacute, and Chronic Low Back Pain: A Clinical Practice Guideline From the American College of Physicians”. Annals of Internal Medicine. 166 (7): 514–530. doi:10.7326/M16-2367. PMID 28192789.
  7. ^ a b c d Hoy D, Bain C, Williams G, và đồng nghiệp (Tháng 6 năm 2012). “A systematic review of the global prevalence of low back pain”. Arthritis Rheum. 64 (6): 2028–37. doi:10.1002/art.34347. PMID 22231424.
  8. ^ a b Vos, T (ngày 15 tháng 12 năm 2012). “Years lived with disability (YLDs) for 1160 sequelae of 289 diseases and injuries 1990–2010: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2010”. Lancet. 380 (9859): 2163–96. doi:10.1016/S0140-6736(12)61729-2. PMID 23245607.
  9. ^ “Use of imaging studies for low back pain: percentage of members with a primary diagnosis of low back pain who did not have an imaging study (plain x-ray, MRI, CT scan) within 28 days of the diagnosis”. &mdash. Agency for Healthcare Research and Quality. 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
  10. ^ Chou, R; Fu, R; Carrino, JA; Deyo, RA (ngày 7 tháng 2 năm 2009). “Imaging strategies for low-back pain: systematic review and meta-analysis”. Lancet. 373 (9662): 463–72. doi:10.1016/S0140-6736(09)60172-0. PMID 19200918.
  11. ^ Deyo, RA; Mirza, SK; Turner, JA; Martin, BI (2009). “Overtreating Chronic Back Pain: Time to Back Off?”. Journal of the American Board of Family Medicine: JABFM. 22 (1): 62–8. doi:10.3122/jabfm.2009.01.080102. PMC 2729142. PMID 19124635.
  12. ^ a b Salzberg L (Tháng 9 năm 2012). “The physiology of low back pain”. Prim. Care. 39 (3): 487–98. doi:10.1016/j.pop.2012.06.014. PMID 22958558.
  13. ^ a b Miller SM (Tháng 9 năm 2012). “Low back pain: pharmacologic management”. Prim. Care. 39 (3): 499–510. doi:10.1016/j.pop.2012.06.005. PMC 494876. PMID 22958559.
  14. ^ Manusov, EG (Tháng 9 năm 2012). “Surgical treatment of low back pain”. Primary care. 39 (3): 525–31. doi:10.1016/j.pop.2012.06.010. PMID 22958562.
  15. ^ Chou R, Baisden J, Carragee EJ, Resnick DK, Shaffer WO, Loeser JD (Tháng 5 năm 2009). “Surgery for low back pain: a review of the evidence for an American Pain Society Clinical Practice Guideline”. Spine. 34 (10): 1094–109. doi:10.1097/BRS.0b013e3181a105fc. PMID 19363455.
  16. ^ Henschke N, Ostelo RW, van Tulder MW, và đồng nghiệp (2010). “Behavioural treatment for chronic low-back pain”. Cochrane Database of Systematic Reviews (7): CD002014. doi:10.1002/14651858.CD002014.pub3. PMID 20614428.
  17. ^ Vinod Malhotra; Yao, Fun-Sun F.; Fontes, Manuel da Costa (2011). Yao and Artusio's Anesthesiology: Problem-Oriented Patient Management. Hagerstwon, MD: Lippincott Williams & Wilkins. tr. Chapter 49. ISBN 1-4511-0265-8. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  18. ^ Floyd, R., & Thompson, Clem. (2008). Manual of structural kinesiology. New York, NY: McGraw-Hill Humanities/Social Sciences/Languages.
  19. ^ a b c Freedman MD, Woodham MA, Woodham AW (March 2010). "The role of the lumbar multifidus in chronic low back pain: a review". PM&R. 2 (2): 142–6. doi:10.1016/j.pmrj.2009.11.006. PMID 20193941.
  20. ^ a b c d e Hughes SP, Freemont AJ, Hukins DW, McGregor AH, Roberts S (October 2012). "The pathogenesis of degeneration of the intervertebral disc and emerging therapies in the management of back pain" (PDF). J Bone Joint Surg Br. 94 (10): 1298–304. doi:10.1302/0301-620X.94B10.28986. PMID 23015552. Archived from the original (PDF) on ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2013.
  21. ^ a b c Borczuk, Pierre (July 2013). "An Evidence-Based Approach to the Evaluation and Treatment of Low Back Pin in the Emergency Department". Emergency Medicine Practice. 15 (7). Archived from the original on ngày 14 tháng 8 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan