Đại Áo | |
---|---|
江戸城の大奥 | |
Đại Áo trong tranh vẽ của Hashimoto Chikanobu | |
Thông tin chung | |
Tình trạng | Bị tháo dỡ kể từ Minh Trị Duy Tân, hiện là Đông Ngự Uyển của Hoàng cư Tokyo |
Địa điểm | Một phần của Giang Hộ thành |
Địa chỉ | Hoàng cư, quận Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản |
Chủ sở hữu | Gia tộc Tokugawa (1603-1868) Hoàng thất Nhật Bản (kể từ năm 1868 cho tới khi bị tháo dỡ hoàn toàn) |
Sử dụng | Cung điện chính của thành Edo |
Xây dựng | |
Khởi công | 1604 |
Hoàn thành | 1710 |
Diện tích sàn | 60 phòng khoảng 20.850 m² |
Đại Áo (chữ Hán: 大奥; おおおくŌoku) hiểu đơn giản là hậu cung của thành Edo (Tokyo, Nhật Bản ngày nay), nơi mà rất nhiều phụ nữ có quan hệ với Tướng quân (shōgun) đương kim cư trú. Khu vực tương tự hậu cung trong lâu đài của những lãnh chúa (大名Đại Danh; daimyō) quyền lực cũng được gọi bằng thuật ngữ này.[1] Đại Áo là nơi sống của mẹ (tướng mẫu), vợ (chính thất) và thê thiếp (Kế thất, trắc thất,..) của tướng quân.[2]
Đồn rằng, trong Đại Áo có đến hàng ngàn phụ nữ, gồm cả người giúp việc và các chức sắc khác. Giống như các phần còn lại của lâu đài Edo, Đại Áo cũng là một trong những đầu mối mưu đồ chính trị của Mạc phủ.
Sau khi thành lập Mạc phủ Tokugawa, tướng quân Tokugawa Ieyasu cho xây dựng các cung điện ở thành Edo. Trong những cung điện ấy cũng đã có những khu được gọi là Đại Áo, tuy nhiên vào thời đó, chưa có sự phân biệt ranh giới giữa Biểu (表; Hyō) - là nơi làm chính trị và Áo (奥; Oku) - là nơi sinh sống của tướng quân và gia đình. Đến năm Nguyên Hoà thứ 4 (1618), ranh giới này được dựng lên theo lệnh của tướng quân đời thứ 2, Tokugawa Hidetada, qua việc ban hành đạo luật mang tên Bích Thư (壁書; Kabegaki) [3]. Sau đó, Bản Hoàn (本丸; Honmaru) được chia thành Biểu (表; Hyō) - trị sở của chính quyền Mạc phủ Tokugawa và Trung áo (中奥; Nakaoku) - nơi sinh sống và làm việc của tướng quân. Đại Áo được đặt tại khu vực gọi là Trung áo này. Tới đời tướng quân thứ 3 Tokugawa Iemitsu, nhũ mẫu Kasuga-no-Tsubone (春日局; Xuân Nhật Cục) là người cho phát triển hàng loạt những quy tắc, tổ chức sắp xếp Đại Áo trở thành giống như chúng ta biết đến ngày nay.
Ở Đại Áo, những người phụ nữ phải sống ở đây gần như cả cuộc đời (ngoại trừ một số Áo Nữ Trung cấp thấp) và không được ra ngoài khi không được cho phép. Ngoài ra, các Áo Nữ Trung cũng không được nói cho người khác biết có chuyện gì xảy ra ở Đại Áo, nếu bị phát hiện sẽ phạt rất nặng, vì vậy các thông tin về Đại Áo lưu truyền rất hạn chế. Mạc phủ cũng đặt ra điều luật cấm nam giới ra vào Đại Áo, chỉ có một cửa duy nhất được mở dưới sự kiểm soát chặt chẽ nhằm phục vụ hoạt động vận chuyển hàng hóa vào cung. Đàn ông dù cố ý hay vô ý nhập cung đều bị xử tử. Hành lang tướng quân đi qua để vào Ōoku được gọi là Ngự Linh Lang Hạ (御鈴廊下; Osuzu Rōka), tên gọi này bắt nguồn từ việc các chiếc chuông sẽ được rung lên khi shogun ngự giá. Đây là lối đi duy nhất để vào Ōoku và thông thường thì nó luôn được khóa. Nhưng để thoát hiểm trong những thiên tai như động đất hay hỏa hoạn, một lối đi nữa được xây dựng sau đó, gọi là Hạ Ngự Linh Lang Hạ (下御鈴廊下; Shimo Osuru Rōka).[4] Việc mở cửa Ngự Linh Lang Hạ do Ngự Đĩnh Khẩu phụ trách.
Năm 1868, trong cuộc Minh Trị Duy Tân, toàn bộ thành Edo bị triều đình thu hồi. Cũng như những chức sắc khác trong thành, các Áo Nữ Trung bị buộc rời khỏi Đại Áo, vì thế không thể tránh khỏi nhiều thông tin trước đây được coi là thông tin mật lọt ra ngoài, tuy nhiên chúng đã bị pha trộn, tồn tại dưới dạng những câu chuyện nửa kỳ ảo, nửa hiện thực.
Dưới thời Edo, lâu đài Edo được gọi là Ngự Thành (御城; Ojō). Bên trong Ngự Thành là các lớp tường thành phòng thủ xây bằng đá, có hào sâu và lính tráng canh gác cẩn mật gọi là khúc luân (曲輪; kuruwa). Bên trong khúc luân được chia ra nhiều khu: Bản thành (本城; Honjo), Tây Chi Hoàn (西の丸; Nishi no Maru), núi Hồng Diệp (紅葉山; Momiji yama) và Xuy Thượng ngự uyển (吹上御苑; Fukiage kyoen). Bản thành bao gồm Bản Hoàn (本丸; Honmaru), Nhị Chi Hoàn (二の丸; Ni no Maru) và Tam Chi Hoàn (三の丸; San no Maru). Đại Áo được đặt trong ba lớp thành quách là Bản Hoàn, Nhị Chi Hoàn và Tam Chi Hoàn, chia làm ba khu: Quảng phu, Ngự điện và Trường cục.
Quảng phu hướng (広敷向; Hiroshikimuki) hoặc Ngự Quảng phu hướng (御広敷向; Ohiroshikimuki), là cửa ngõ ra vào Đại Áo, có bộ phận canh gác nghiêm ngặt.
Ngự điện hướng (御殿向; Gotenmuki) là nơi sống và làm việc của tướng quân, ngự đài sở, sinh mẫu của tướng quân và đại ngự đài sở. Ngự điện bao gồm:
Trường cục hướng (長局向; Nakatsubone Muki) là nơi làm việc của các tổng quản và các dãy phòng ngủ của thị nữ, nô tì trong Đại Áo.[5]
Đại Áo là một xã hội thu nhỏ, tập hợp hơn một nghìn phụ nữ với thứ bậc cao thấp khác nhau; bao gồm chính thê, trắc thất, tổng quản, thị nữ; được gọi chung là Áo nữ trung (奥女中; Okujōchū), có nhiệm vụ hầu hạ Tướng quân và gia tộc Tokugawa. Trong đó chỉ một số ít Áo nữ trung có tư cách tiếp kiến tướng quân; số còn lại là các thị tỳ, nô bộc chuyên dọn dẹp, gánh nước, nấu nướng hay may vá.
Chính thê của các tướng quân tôn xưng Ngự đài sở (御台所; Midaidokoro) là người có quyền đứng đầu, thống lĩnh Đại Áo trên danh nghĩa; tuy vậy Đại Áo thường được quản lý bởi Thượng lạp Ngự niên ký hoặc các nữ quan tổng quản dưới quyền bà là Ngự niên ký.
Việc tuyển chọn Ngự đài sở được Mạc phủ đặc biệt chú trọng. Kể từ đời tướng quân thứ 3 là Iemitsu, Ngự đài sở phải có xuất thân trong sạch và cao quý, phải là con gái của 4 gia tộc có huyết thống gần gũi với hoàng thất Nhật Bản, gọi là "Tứ Thân Vương gia" (四親王家; Shishinnō ke), bao gồm:
hoặc là con gái của một trong "Ngũ nhiếp gia" (五摂家; Sekke), bao gồm:
Tuy nhiên cũng có những ngoại lệ. Ví dụ như Quảng Đại viện - chính thất của Tokugawa Ienari và Thiên Chương viện - chính thất của Tokugawa Iesada, đều xuất thân từ gia tộc Shimazu nhưng lấy thân phận con nuôi của nhà Cận Vệ để trở thành Ngự đài sở. Thêm nữa, Bát Thập Cung Cát Tử Nội Thân vương - hứa hôn với Tokugawa Ietsugu và Hoà Cung Thân Tử Nội Thân vương - chính thất của Tokugawa Iemochi; đều không xuất thân từ Ngũ Nhiếp gia hay Tứ Thân Vương gia, mà là con gái ruột của Thiên hoàng.
Từng có giai đoạn, tướng quân không lập Ngự đài sở, như thời tướng quân đầu tiên Ieyasu và tướng thứ 8 Yoshimune. Chính thất của cả hai vị trên đều đã qua đời từ trước khi họ trở thành tướng quân, và họ không lập thêm chính thất mới trong suốt thời gian tại vị. Vì vậy trong thời gian này, danh vị Ngự đài sở hoàn toàn bị bỏ trống. Khi đó người chủ trì quản lý Đại Áo sẽ là sinh mẫu của tướng quân hoặc là chính thất của tiên tướng quân.
Hầu hết các chính thất của tướng quân nhà Tokugawa trong giai đoạn đầu thời kỳ Edo đều có vai trò là nữ chủ của Đại Áo. Tuy nhiên, như trường hợp Ngự đài sở của Tokugawa Iemitsu là Takatsukasa Takako, thực quyền quản lý Đại Áo lại nằm trong tay nhũ mẫu Kasuga-no-Tsubone. Kasuga-no-Tsubone từ một nhũ mẫu đã vươn tới đỉnh cao quyền lực trong Đại Áo mà chi phối chính sự. Sau đó, để tránh tình trạng này tái diễn, Mạc Phủ thực hiện hàng loạt quy tắc siết chặt, ví dụ như việc yêu cầu các nhũ mẫu phải che mặt khi cho thế tử bú sữa nhằm ngăn cản tướng quân tương lai nảy sinh tình nghĩa với người ngoại tộc. Kể từ thời tướng quân Ienobu, vị trí của Ngự đài sở trong Đại Áo mới trở nên bất di bất dịch.
Tất cả các cuộc hôn nhân giữa Ngự đài sở và các tướng quân nhà Tokugawa đều là hôn nhân sắp đặt, thường là vì lý do chính trị. Theo thông lệ, Ngự đài sở thì không được phép có con do Mạc phủ lo ngại triều đình dựa vào mối liên kết với đứa con này mà nhúng tay vào chính sự. Trong suốt chiều dài lịch sử của Đại Áo, duy nhất Ngự đài sở Oeyo - chính thất của tướng quân Hidetada là sinh được thế tử kế vị.
Sau khi tướng quân qua đời, khác với các trắc thất không sinh được con trai cho tướng quân phải rời khỏi Đại Áo, Ngự đài sở sẽ được tôn là Đại Ngự đài sở (大御台所; Ōmidai dokoro) và được tiếp tục ở lại Đại Áo. Đại Ngự đài sở là danh vị cực cao quý, là người phụ nữ có địa vị tôn kính nhất được quyền tham dự chuyện chính sự của Mạc phủ.
Các trắc thất của tướng quân cơ bản xuất thân từ các Ngự trung lạp hầu hạ Ngự đài sở trong Đại Áo.
Trong mỗi lần viếng thăm Đại Áo, Ngự đài sở, tổng quản Thượng Lạp Ngự niên ký, Ngự niên ký và Ngự trung lạp sẽ quỳ dọc hai bên Ngự Linh Lang Hạ theo thứ bậc để tiếp kiến. Nếu may mắn được để mắt, tướng quân sẽ nói tên của Ngự trung lạp đó cho tổng quản Ngự niên ký của mình. Ngự niên ký của tướng quân sẽ gặp và họp bàn với Ngự niên ký của Ngự đài sở. Cùng ngày, một thủ tục gọi là "Ngự đài sở liễu thừa" (御台所了承; Midaidokoro ryōshō) nhằm đạt được sự đồng ý của Ngự đài sở sẽ diễn ra và nếu được phê duyệt, Trung lạp này sẽ được tướng quân thị tẩm tại Ngự Tiểu Toạ Phu vào đêm hôm đó. Ngự trung lạp được chỉ định có quyền từ chối thị tẩm, nhưng họ sẽ bị buộc phải "vĩnh ngự hạ" (永のお暇; ei-no-ohima) - tức là vĩnh viễn từ bỏ chức vụ của mình và rời khỏi Đại Áo.
Sau khi thị tẩm, Ngự trung Lạp được gọi là Otetsuki (お手つき). Nếu Otetsuki sinh được con trai sẽ gọi là Ngự bộ ốc dạng (御部屋様; Oheya sama), sinh con gái gọi là Ngự phúc dạng (御腹様; Ohara sama). Họ được tướng quân cấp cho cung điện riêng và trở thành trắc thất của tướng quân.
Dù đã trở thành trắc thất, nhưng Ngự bộ ốc dạng và Ngự phúc dạng hầu như không có quyền lực gì đáng kể. Chỉ sau khi họ sinh ra được thế tử kế vị thì địa vị của họ mới có cơ hội thăng tiến. Ví dụ, khi trắc thất mang thai, các quan ngự y tới thăm khám phải quỳ ở thềm dưới để tỏ lòng tôn kính với hậu duệ của tướng quân đang nằm trong bụng; sau khi trắc thất sinh con, ngược lại ngự y ngồi ở bậc trên khám cho trắc thất.
"Ngự bộ ốc dạng" dù không có gia thế hiển hách nhưng nếu sinh được con trai thì họ có thể sống phú quý đến hết đời do được đi theo con đến sống tại dinh thự tướng quân phong cho ở các phiên thuộc nằm khắp đất nước. Đặc biệt, nếu con trai của Ngự bộ ốc dạng được chọn làm thế tử và trở thành tướng quân trong tương lai thì họ sẽ là tướng mẫu được đối đãi không kém gì Ngự đài sở. Ví dụ như mẹ của tướng quân Tokugawa Tsunayoshi là Quế Xương viện từng được phong "Tòng Nhất vị" (従一位; Jūichimi; tương đương nhất phẩm phu nhân). Nhưng Mạc phủ Tokugawa đã sớm để mắt tới điều này. Nhiều chính sách kìm hãm được Mạc phủ đưa ra, tới nửa cuối thời Edo, quyền lực của các trắc thất, sinh mẫu và nhũ mẫu tướng quân ngày một suy giảm theo thời gian. Các trắc thất dù sinh ra thế tử nối dõi tướng quân cũng chỉ được đối đãi không khác gì một Nữ trung hầu hạ gia tộc Tokugawa.
Sau khi tướng quân qua đời, tất cả trắc thất đều phải cắt tóc ngang lưng, không được búi lên cao. Theo thông lệ, họ lấy pháp hiệu nữ viện theo cú pháp gồm 3 Hán tự, hậu tố cuối cùng kết thúc bằng "viện" (院; in), ví dụ như Thiên Anh viện, Trừng Tâm viện; sau đó rời khỏi Đại Áo. Ngự bộ ốc dạng và Ngự phúc dạng sinh được con cho tướng quân sẽ được chuyển đến sống trong cung điện ở Nhị Chi Hoàn hoặc Tam Chi Hoàn. Các Ngự trung lạp Otetsuki không có con bị giam hãm ở điện Sakurada và dành cả phần đời còn lại lặng lẽ để tang cho phu quân. Các vị trắc thất này không được phép trở về với mẫu tộc của mình.
Trong số 15 vị tướng quân nhà Tokugawa, chỉ có 2 vị là tướng quân thứ 7 Ietsugu - qua đời khi mới lên 7 tuổi và tướng quân thứ 13 Iemochi là không có trắc thất.
Những tổng quản hầu hạ gia đình tướng quân có trách nhiệm quản lý các công việc lớn nhỏ trong Đại Áo, giữa các tổng quản cũng phân chia thứ bậc:
Một số tước vị khác thấp hơn:
Trong nghệ thuật hội họa Nhật Bản, có nhiều bức tranh nói về Ōoku rất nổi tiếng. Một series phim truyền hình rất ăn khách mang tên "Ōoku" cũng được FujiTV sản xuất. Hay những bộ phim khác như "Atsuhime" (Taiga NHK sản xuất), "Oh! Oku" (phim 2006), "Ōoku" (phim 2008)" và "Ōoku" (phim 2010). Một bộ manga có tên "Ōoku: The inner chambers" cũng lấy chủ đề về Ōoku.