4 Non Blondes

4 Non Blondes
Nguyên quánSan Francisco, California, Hoa Kỳ
Thể loạiAlternative rock, blues rock, psychedelic rock, hard rock
Năm hoạt động1989–1994, 2014
Hãng đĩaInterscope, Atlantic
Hợp tác vớiMalibu Barbi
Louis Metoyer Band
Cựu thành viênLinda Perry
Christa Hillhouse
Shaunna Hall
Wanda Day
Dawn Richardson
Louis Metoyer
Roger Rocha

4 Non Blondes là một ban nhạc rock của Mỹ được thành lập vào năm 1989 ở San Francisco, California.[1] Các thành viên ban đầu gồm guitar bass Christa Hillhouse, guitar Shaunna Hall, trống Wanda Day, và ca sĩ kiêm guitar Linda Perry. Trước khi phát hành album đầu tiên, Roger Rocha thay Hall ở vị trí guitar, và Dawn Richardson thay Day ở vị trí trống. Họ lọt vào các bảng xếp hạng năm 1993 với đĩa đơn "What's Up?"", đây cũng là đĩa đơn lọt top duy nhất của ban nhạc này. Perry rời ban năm 1994 để bắt đầu sự nghiệp solo, các thành viên còn lại cũng giải tán ngay sau đó.[1]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Tay guitar bass Christa Hillhouse và guitar Shaunna Hall là bạn cùng phòng và họ gặp tay trống Wanda Day khi cùng tham gia một ban nhạc mà Day đang chơi. Khi cả ba rời khỏi ban nhạc đó, họ bắt đầu chơi như một nhóm nhạc tam tấu. Nhưng sau khi gặp Perry khi cô đang hát tại một buổi trình diễn của mình, Hillhouse và Hall đã đề nghị Perry cùng tham gia ở vị trí ca sĩ. Theo Perry, cô và Hall gặp nhau ở câu lạc bộ Nightbreak tại San Francisco, và khi nó họ đề cập về vấn đề tìm kiếm một ca sĩ, Perry cho biết cô là một ca sĩ và Hall đã trả lời: "Tôi biết". Buổi tập đầu tiên của họ được cho là vào lúc 6:00 ngày 17 tháng 10 năm 1989, nhưng sau 17:00 thì trận động đất Loma PrietaLoma chấn động cả San Francisco.[2][3]

Ban nhạc đã ký hợp đồng với hãng đĩa Interscope vào tháng 7 năm 1991 sau một buổi biểu diễn tại Hội thảo Gavin, nơi mà ban nhạc đã mở màn cho Primus trong dịp Valentine cùng năm đó. Khi họ bắt đầu cho việc sản xuất album đầu tay, Day đã bị sa thải và Richardson thay thế vào vị trí của cô. Năm 1992, khi ghi âm Bigger, Better, Faster, More!, nhà sản xuất của album, David Tickle, đã cảm thấy phần guitar của Hall như là "không có", vì vậy Hall đã bị cho ra khỏi ban.[4] Tay guitar Louis Metoyer hoàn tất bản thu âm. Roger Rocha nhập ban sau khi album đã hoàn thành và ở lại với ban cho đến năm 1994. Sau khi rời Blondes vào năm 1991, Day tiếp tục đánh trống cho Malibu Barbi,[5] và sau đó là Bad Dog Play Dead. Vào cuối năm 1992, cô bị tai nạn và chân bị đè nát và lưng bị gãy. Day rời khỏi San Francisco vào năm 1995, thỉnh thoảng cô đến Arizona và cuối cùng đã trở lại Salt Lake City.

Day qua đời vào ngày 10 tháng 7 năm 1997,[6] theo Christa Hillhouse là do cô dùng thuốc quá liều,[7] và được an táng tại Tropic, Utah.

Ngày 11 tháng 5 năm 2014, nhóm tái hợp để thực hiện một buổi hòa nhạc nhỏ tại một buổi quyên góp mang tên "An Evening For Women" được tổ chức tại Beverly Hilton ở Los Angeles. Sáu bài hát trên danh sách là "Train", "Spaceman", "The Ladder", "Mighty Lady", "Superfly""What's Up?". Việc gây quỹ được tổ chức bởi Los Angeles Gay & Lesbian Center.[8]

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Linda Perry – ca sĩ, guitar (1989–1994)
  • Christa Hillhouse – bass (1989–1994)
  • Shaunna Hall – guitar (1989–1992)
  • Wanda Day – trống (1989–1992)
  • Dawn Richardson – trống (1992–1994)
  • Louis Metoyer – guitar (1992)
  • Roger Rocha – guitar (1992–1994)

Sơ đồ thời gian

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách đĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Chi tiết Vị trí trên bảng xếp hạng Chứng nhận
US
[9]
AUS
[10]
AUT
[11]
GER
[12]
NLD
[13]
NO
[14]
NZ
[15]
SWE
[16]
CH
[17]
UK
[9]
1992 Bigger, Better, Faster, More!
  • Phát hành: 13 tháng 10 năm 1992
  • Hãng đĩa: Interscope
13 4 1 1 1 1 10 1 1 4

Album thu âm trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Hello Mr. President (diễn trực tiếp tại Ý năm 1993) (1994)

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Ví trí trên bảng xếp hạng Album
US
[21]
AUS
[22]
AUT
[23]
BEL
[24]
FRA
[25]
GER
[12]
NLD
[26]
NOR
[27]
NZ
[28]
SWE
[29]
SWI
[30]
UK
[31]
1992 "Dear Mr. President" 40 Bigger, Better, Faster, More!
1993 "What's Up?" 14 2 1 1 3 1 1 1 2 1 1 2
"Spaceman" 19 24 28 25 23 18 53
"Mary's House"
1994 "I'm the One" Airheads soundtrack
"Superfly" Bigger, Better, Faster, More!
1995 "Misty Mountain Hop" Encomium
"—" biểu thị một bản thu âm mà không được xếp hạng hoặc không được phát hành trong lãnh thổ đó.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Strong, Martin C. (2000). The Great Rock Discography (ấn bản thứ 5). Edinburgh: Mojo Books. tr. 355. ISBN 1-84195-017-3.
  2. ^ Indiana, Gary (July–August 1991). “4 Non Blondes Interview”. Flipside Magazine.
  3. ^ “Earthquake”. Time Magazine. Time Inc. ngày 30 tháng 10 năm 1989. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate=|archive-date= (trợ giúp)
  4. ^ Chun, Kimberly. “Noise: Miss understood”. The San Francisco Bay Guardian. The San Francisco Bay Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2008.
  5. ^ Hall, Shaunna. “Life and Times of Wanda Day”. Loudith Faire. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2008.
  6. ^ “Death: Wanda Marie Day”. Deseret News. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2014.
  7. ^ Kimberly Chun. “Miss Understood”. San Francisco Bay Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
  8. ^ Breihan, Tom (ngày 11 tháng 5 năm 2014). “Watch A Reunited 4 Non Blondes Play "What's Up" For The First Time In 20 Years”. Stereogum. Spin Media. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2014.
  9. ^ a b “Chart Stats - 4 Non Blondes”. billboard.com. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
  10. ^ “Discography 4 Non Blondes”. Australian-Charts.com. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
  11. ^ “Discographie 4 Non Blondes”. AustrianCharts.at. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
  12. ^ a b “Suche nach '4 Non Blondes' [Search for '4 Non Blondes']. Charts.de (bằng tiếng Đức). Media Control AG. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014.
  13. ^ “Discografie 4 Non Blondes”. DutchCharts.nl. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
  14. ^ “Discography 4 Non Blondes”. norwegiancharts.com. Truy cập 17 tháng 11, 2011.
  15. ^ “Discography 4 Non Blondes”. Charts.ord.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
  16. ^ “Discography 4 Non Blondes”. SwedishCharts.com. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
  17. ^ “Discography 4 Non Blondes”. SwissCharts.com. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
  18. ^ “Searchable Database”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011. Note: User must define 'Artist' search parameter as "4 Non Blondes".
  19. ^ “Gold/Platin”. Gold-/Platin-Datenbank (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014.
  20. ^ "Certified Awards Search" Lưu trữ 2017-10-06 tại Wayback Machine. British Phonographic Industry. Truy cập 2011-11-17. Note: User needs to enter "4 Non Blondes" in the "Search" field, "Artist" in the "Search by" field and click the "Go" button. Select "More info" next to the relevant entry to see full certification history.
  21. ^ “4 Non Blondes”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  22. ^ “4 NON BLONDES IN AUSTRALIAN CHARTS”. australian-charts.com. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  23. ^ “4 NON BLONDES IN DER ÖSTERREICHISCHEN HITPARADE”. Austriancharts.at. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  24. ^ “4 NON BLONDES - WHAT'S UP?”. Ultra Top. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  25. ^ “4 NON BLONDES DANS LES CHARTS FRANÇAIS”. lescharts.com. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  26. ^ “4 NON BLONDES IN DUTCH CHARTS”. dutchcharts.nl. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  27. ^ “4 NON BLONDES IN NORWEGIAN CHARTS”. Norwegiancharts.com. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  28. ^ “4 NON BLONDES IN NEW ZEALAND CHARTS”. Charts.org.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  29. ^ “DISCOGRAPHY 4 NON BLONDES”. Swedishcharts.com. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  30. ^ “4 NON BLONDES - WHAT'S UP?”. Hitparade.ch. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  31. ^ “4 NON BLONDES”. Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Tokitou Muichirou - Kimetsu no Yaiba
Nhân vật Tokitou Muichirou - Kimetsu no Yaiba
Tokito Muichiro「時透 無一郎 Tokitō Muichirō​​」là Hà Trụ của Sát Quỷ Đội. Cậu là hậu duệ của Thượng Huyền Nhất Kokushibou và vị kiếm sĩ huyền thoại Tsugikuni Yoriichi.
Giới thiệu Level Up: Gaming Gò Gai, Thủy Nguyên, Hải Phòng
Giới thiệu Level Up: Gaming Gò Gai, Thủy Nguyên, Hải Phòng
Một quán net sạch sẽ và chất lượng tại Thủy Nguyên, Hải Phòng bạn nên ghé qua
Tổng quan về Vua thú hoàng kim Mech Boss Chunpabo
Tổng quan về Vua thú hoàng kim Mech Boss Chunpabo
Sau khi loại bỏ hoàn toàn giáp, Vua Thú sẽ tiến vào trạng thái suy yếu, nằm trên sân một khoảng thời gian dài. Đây chính là lúc dồn toàn bộ combo của bạn để tiêu diệt quái
The Alley Flash - Weapon Guide Genshin Impact
The Alley Flash - Weapon Guide Genshin Impact
The Alley Flash is a Weapon Event's weapon used to increase the damage dealt by the wearer, making it flexible to the characters