Bá quốc Brandenburg

Phiên bá quốc Brandenburg
Tên bản ngữ
  • Mark/Markgrafschaft Brandenburg
1157–1806
Quốc kỳ hoặc naval ensign (based on L. Verschuier's painting of c. 1684[1]) Brandenburg
Quốc kỳ hoặc naval ensign
(based on L. Verschuier's painting of c. 1684[1])
Bá quốc Brandenburg trong Đế quốc La Mã Thần thánh (1618)
Tổng quan
Vị thếChư hầu Đế quốc La Mã Thần thánh
Tuyển đế hầu (1356–1806)
Lãnh thổ vương quyền của Vương quyền Bohemian (1373–1415)
Thủ đôBrandenburg an der Havel (1157–1417)
Berlin (1417–1806)
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Hạ Đức
Tôn giáo chính
Dân chúng phần lớn theo Công giáo La mã cho đến những năm 1530, sau đó là Tin Lành.

Tuyển hầu tước là người theo Công giáo La Mã cho đến năm 1539, sau đó là Tin Lành cho đến năm 1613.
Chính trị
Chính phủQuân chủ
Công quốc 
• 1157–70
Albert Gấu (đầu tiên) 1417
• 1797–1806
Friedrich Wilhelm III (sau cùng)
Lịch sử
Lịch sử 
• Thành lập
03/10 1157
• Được nâng lên Tuyển đế hầu
25/12/1356
27/08/1618
18/01/1701
06/08 1806
Tiền thân
Kế tục
Phiên quốc phương Bắc
Lutician federation
Brandenburg-Küstrin
Giáo phận vương quyền Brandenburg
Tỉnh Brandenburg


Phiên bá quốc Brandenburg (tiếng Đức: Markgrafschaft Brandenburg), hay Bá quốc Brandenburg, là một Thân vương quốc lớn và quan trọng của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1157 cho đến khi đế chế này bị tan rã vào năm 1806. Phiên quốc Brandenburg và gia tộc Hohenzollern đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của ĐứcTrung Âu.

Brandenburg vốn là lãnh thổ cư trú của người Slav thuộc vùng phiên quốc phương Bắc. Thông qua các cuộc hôn nhân, các bá tước Brandenburg dần được nâng lên địa vị Tuyển đế hầu bởi Sắc chỉ Vàng vào năm 1356, có quyền bầu chọn Hoàng đế La Mã Thần thánh. Vì vậy Bá tước Brandenburg còn được gọi là Tuyển hầu xứ Brandenburg.

Nhà Hohenzollern chính thức cai trị Brandenburg vào năm 1415, đến năm 1417, Friedrich I, Tuyển hầu xứ Brandenburg chuyển thủ phủ của bá quốc từ Brandenburg an der Havel đến Berlin. Dưới sự cai trị của nhà Hohenzollern, Brandenberg đã phát triển nhanh chóng về quyền lực và lãnh thổ trong suốt thế kỷ XVII và thừa kế thêm Công quốc Phổ khiến cho lãnh thổ của nó trở nên rộng lớn. Brandenburg-Phổ là tiền thân của Vương quốc Phổ, là một nhà nước hùng mạnh của Đức trong thế kỷ XVIII. Mặc dù tước hiệu cao nhất của các Tuyển hầu nhà Hohenzollern là "Vua của Phổ", nhưng trung tâm quyền lực của họ vẫn được đặt tại Brandenburg và thủ đô Berlin.

Bá quốc Brandenburg chấm dứt tồn tại sau khi Đế quốc La Mã Thần thánh bị giải thể vào năm 1806. Sau Chiến tranh Napoleon, lãnh thổ bá quốc Brandenburg cũ chuyển thành tỉnh Brandenburg thuộc Vương quốc Phổ vào năm 1815. Không lâu sau đó, vương quốc Phổ của nhà Hohenzollern thống nhất Đức và thành lập ra Đế quốc Đức trong năm 1871. Ngai hoàng đế của Đế quốc thuộc về nhà Hohenzollern với tước vị Quốc vương Phổ cho đến khi Đế chế này sụp đổ vào năm 1918.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Lãnh thổ của Phiên địa bá quốc cũ, thường được gọi là Mark Brandenburg, nằm ở miền Đông nước Đức và miền Tây Ba Lan ngày nay. Về mặt địa lý, nó bao gồm phần lớn các bang BrandenburgBerlin ngày nay của Đức, Altmark (một phần ba phía Bắc của Sachsen-Anhalt), và Neumark (hiện được phân chia giữa các đơn vị hành chính LubuszTây Pomeranian của Ba Lan). Các phần của bang Brandenburg ngày nay, chẳng hạn như Hạ Lusatia và lãnh thổ từng là Sachsen cho đến năm 1815, không phải là một phần của Mark. Nói một cách thông dụng, nhưng không chính xác, bang Brandenburg của Liên bang Đức đôi khi được xác định là Mark hoặc Mark Brandenburg.

Khu vực này được hình thành trong Kỷ băng hà và được đặc trưng bởi các dãy núi, thung lũng băng và nhiều hồ. Lãnh thổ được gọi là Mark hoặc March vì nó là một bá quốc biên giới của Đế chế La Mã Thần thánh (xem thêm Bá quốc Meissen). Mark được xác định bởi hai vùng cao và hai vùng lõm. Các vùng trũng được bồi đắp bởi các sông và chuỗi hồ với đầm lầy và đất lầy dọc theo bờ biển; từng được sử dụng để thu gom than bùn, các bờ sông bây giờ hầu hết đã cạn và khô.

Vùng cao phía Bắc hoặc Vùng cao Baltic của Cao nguyên Hồ Mecklenburg chỉ có những phần mở rộng nhỏ vào Brandenburg. Dải đồi dài khoảng 230 km ở phía Nam của Mark bắt đầu từ Cao nguyên Lusatia (gần Żary (Sorau)) và tiếp tục qua Trzebiel (Triebel)Spremberg, sau đó về phía Tây Bắc qua Calau, và kết thúc ở vùng Fläming trống trải và khô cằn. Vùng lõm phía Nam thường ở phía Bắc của rặng núi này và xuất hiện nổi bật trong Spreewald (giữa Baruth/MarkPlaue an der Havel). Vùng trũng phía Bắc, nằm gần như trực tiếp về phía Nam của Vùng cao Baltic, được xác định bởi các vùng đất thấp của sông NotećWarta, sông Oderbruch, thung lũng Finow, đồng hoang Havelland và sông Oder.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Bắc March

[sửa | sửa mã nguồn]
Lãnh thổ của người Slav tiền Brandenburg, k. 1150.

Vào thế kỷ thứ VIII, những Người Slav Wends, chẳng hạn như các bộ lạc SprewaneHevelli (Havolane hoặc Stodorans), bắt đầu di chuyển vào khu vực Brandenburg. Họ kết hôn với người Sachsen và người Bohemia.

Các Giáo phận BrandenburgHavelberg được thành lập vào đầu thế kỷ thứ X (lần lượt vào năm 928 và 948).[3] Người đứng đầu là Tổng giám mục Mainz; Tòa Giám mục của Brandenburg vươn tới Biển Baltic.

Vua Heinrich Người săn chim bắt đầu cai trị vùng này vào năm 928–929, cho phép Hoàng đế Otto I lập ra Phiên quốc phương Bắc dưới thời bá tước Gero I vào năm 936 trong thời kỳ Ostsiedlung của Đức. Tuy nhiên, phiên quốc và các giáo phận đã bị lật đổ bởi một cuộc nổi dậy của người Slav vào năm 983; cho đến khi liên minh Liutizian sụp đổ vào giữa thế kỷ XI, chính quyền Đế chế La Mã Thần thánh thông qua các giám mục và các phiên hầu đã gần như bế tắc trong khoảng 150 năm,[4] mặc dù giáo phận vẫn được giữ lại.

Vương công Pribislav xứ Hevelli lên nắm quyền tại lâu đài Brenna (Brandenburg an der Havel) vào năm 1127. Trong thời kỳ trị vì của Pribislav, trong đó ông đã vun đắp mối quan hệ chặt chẽ với giới quý tộc Đức, người Đức đã thành công trong việc ràng buộc với Đế chế La Mã Thần thánh vùng Havolane từ Brandenburg an der Havel đến Spandau. Biên giới tranh chấp phía Đông tiếp tục giữa Hevelli và Sprewane, được công nhận là đường Havel-Nuthe. Vương công Jaxa xứ Köpenick (Jaxa de Copnic) của Sprewane sống ở Köpenick phía đông của đường phân chia.

Wittelsbach

[sửa | sửa mã nguồn]

Luxembourg

[sửa | sửa mã nguồn]

Hohenzollern

[sửa | sửa mã nguồn]

Brandenburg-Phổ

[sửa | sửa mã nguồn]

Vương quốc Phổ

[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm sau này

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Die kurbrandenburgische Flotte (1684)
  2. ^ Dựa trên một số mô tả ban đầu được bảo tồn:
  3. ^ Koch, p. 23.
  4. ^ Koch, p. 24.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • H.W. Koch (1978). A History of Prussia. New York: Barnes & Noble Books. tr. 326. ISBN 0-88029-158-3.
  • (bằng tiếng Đức) Hochmittelalter in der Mark Brandenburg at Brandenburg1260.de.
  • (bằng tiếng Đức) Der Brandenburger Landstreicher
  • Historical map of Brandenburg, 1789
  • (bằng tiếng Đức) Wanderungen durch die Mark Brandenburg by Theodor Fontane, 1899 at Lexikus.de.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Ore wo Suki nano wa Omae dake ka yo Vietsub
Ore wo Suki nano wa Omae dake ka yo Vietsub
Kisaragi Amatsuyu được Cosmos – 1 senpai xinh ngút trời và Himawari- cô bạn thời thơ ấu của mình rủ đi chơi
Đôi nét về trái ác quỷ hệ Zoan thần thoại của Luffy
Đôi nét về trái ác quỷ hệ Zoan thần thoại của Luffy
Nên biết Nika được mọi người xưng tụng là thần mặt trời, nên chưa chắc chắn được năng lực của Nika sẽ liên quan đến mặt trời
Chân Huyết-Thần Tổ Cainabel Overlord
Chân Huyết-Thần Tổ Cainabel Overlord
Cainabel hay còn biết tới là Huyết Thần (Chân Huyết) 1 trong số rất nhiều vị thần quyền lực của Yggdrasil và cũng là Trùm sự kiện (Weak Event Boss) trong Yggdrasil
Một tip nhỏ về Q của Bennett và snapshot
Một tip nhỏ về Q của Bennett và snapshot
Nhắc lại nếu có một vài bạn chưa biết, khái niệm "snapshot" dùng để chỉ một tính chất đặc biệt của kĩ năng trong game