BGM-71 TOW | |
---|---|
Tên lửa TOW bắn từ xe M151 MUTT. | |
Loại | Tên lửa chống tăng |
Nơi chế tạo | Hoa Kỳ |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1970 đến nay |
Sử dụng bởi | Xem users |
Lược sử chế tạo | |
Năm thiết kế | 1963- 1968 |
BGM-71 TOW là một loại tên lửa điều khiển chống tăng được chế tạo lần đầu vào năm 1970 và thử nghiệm trong Chiến tranh Việt Nam.[1]
BGM-71 TOW là loại được sử dụng rộng rãi nhất trong số những loại tên lửa chống tăng do Mỹ chế tạo. Loại tên lửa này liên tục được nâng cấp và sẽ vẫn được nhiều nước sử dụng ít nhất cho tới hết thập niên 2020.
Ngày 24 tháng 4 năm 1972, Đội TOW Chiến đấu trên không số 1 của Hoa Kỳ đã đến miền Nam Việt Nam; nhiệm vụ của nhóm là thử nghiệm tên lửa chống tăng mới trong điều kiện chiến đấu. Trong lần thử nghiệm đầu tiên vào ngày 2/5/1972 tại An Lộc, trực thăng UH-1 Huey của Quân đội Hoa Kỳ bắn TOW đã phá hủy 1 xe tăng hạng nhẹ M41 do quân đội Nhân dân Việt Nam thu giữ được trước đó. Ngày 9 tháng 5 năm 1972 tại chiến trường Bắc Tây Nguyên, đơn vị thử nghiệm đã dùng TOW gắn trên xe tiêu diệt được 3 xe tăng PT-76 của Quân đội Nhân dân Việt Nam.[2] Đến cuối tháng 5, đơn vị thử nghiệm BGM-71 TOW gắn trên xe hoặc trên trực thăng vũ trang AH-1 Cobra đã diệt được 24 xe tăng hoặc xe vận tải của đối phương.[3]
Ngày 19 tháng 8, Trung đoàn 5, Sư đoàn 2 bộ binh VNCH đã chạy khỏi Căn cứ Hỏa lực Ross tại Thung lũng Quế Sơn, cách Đà Nẵng 48 km về phía Tây Nam do cuộc tấn công của Sư đoàn 711 QĐNDVN. Hàng chục tên lửa TOW cùng với các thiết bị bị bỏ lại và rơi vào tay Quân đội Nhân dân Việt Nam[4]. Điều này có thể đã dẫn tới việc lộ bí mật công nghệ vào tay Liên Xô.
Raytheon đã tiếp quản Hughes trong những năm gần đây, và hiện đang xử lý sản xuất tất cả các biến thể hiện tại, cũng như phát triển TOW.
Designation | Description | Length | Diameter | Wingspan | Launch weight | Warhead | Armor penetration (est.) | Range | Speed |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
XBGM-71A/BGM-71A | Hughes Tube launched Optically tracked Wire command link guided (TOW) Missile | 1.16 m | 0.152 m | 0.46 m | 18.9 kg | 3.9 kg (2.4 kg HE) HEAT | 430 mm (exact value) | 65–3.750 m (2,33 mi) | 278 m/s[cần dẫn nguồn] |
BGM-71B | BGM-71A variant; improved range | ||||||||
BGM-71C | BGM-71B variant; Improved TOW (ITOW) w/ improved shaped-charge warhead | 1.41 m (probe extended) 1.17 m (probe folded) |
19.1 kg | 630 mm (exact value) | |||||
BGM-71D | BGM-71C variant; TOW-2, improved guidance, motor and enlarged main warhead | 1.51 m (probe extended) 1.17 m (probe folded) |
21.5 kg | 5.9 kg (3.1 kg HE) HEAT |
900 mm | ||||
BGM-71E | BGM-71D variant; TOW-2A optimized to defeat reactive armor with tandem warheads | 22.6 kg | 900 mm (behind a layer of ERA) | ||||||
BGM-71F | BGM-71D variant; TOW-2B top-down attack variant using explosively formed penetrators | 1.168 m | 6.14 kg EFP[5] | no data | 200–4.500 m (2,8 mi)[N 1][6] | ||||
BGM-71G | BGM-71F variant; different AP warhead; not produced | no data | no data | no data | no data | no data | |||
BGM-71H | BGM-71E variant; "bunker buster" variant for use against fortified structures | no data | no data | no data | 200 mm double reinforced concrete[6] | 65–4.200 m (2,6 mi)[6] |
While the original armor penetration estimates were 600 mm for BGM-71A/B and 700–800 mm for BGM-71C, a now declassified CIA study shows the true penetration values against a vertical target are much lower—just 430 mm for the BGM-71A/B TOW and 630 mm for the BGM-71C Improved TOW.[7]
Time to target at maximum range is 20 seconds therefore giving an average speed of 187.5 m/s.[8]
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên France-Soir
Tư liệu liên quan tới BGM-71 TOW tại Wikimedia Commons
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “N”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="N"/>
tương ứng