Dãy núi Gorce

Dãy núi Gorce
Khung cảnh của đỉnh Kiczora từ Jaworzyna Kamienicka
Độ cao1.310 m (4.300 ft)
Vị trí
Tọa độ49°32′36″B 20°6′47″Đ / 49,54333°B 20,11306°Đ / 49.54333; 20.11306

Dãy núi Gorce ( tiếng Ba Lan: Gorce [ɡɔrˈt͡sɛ] ) là một phần của dãy núi phía Tây Beskids , trải rộng khắp phía nam Ba Lan .[1] Chúng nằm ở tỉnh Małopolska, ở cực tây của dãy Carpathian kéo dài khoảng 1500 km về phía đông, ở phía bên kia sông Dunajec . Dãy Gorce được đặc trưng bởi nhiều rặng núi vươn tới mọi hướng trong phạm vi lên tới 40 km từ Đông sang Tây, với một loạt các độ cao cao hơn bị cắt bởi các thung lũng sông sâu.[1]

Phạm vi bị chi phối bởi khoảng một chục đỉnh núi thoải bao gồm Turbacz (cao nhất, ở mức 1310m trên mực nước biển) ở trung tâm và - quay mặt về hướng đông; Jaworzyna Kamienicka ( 1288m ); Kiczora ( 1282m ), Kudłoń ( 1276m ), Przysłop, Czoło và Gorc Kamienicki. Sườn núi phía đông nam của dãy Gorce trải dài tới dãy Pieniny (bị cắt bởi đèo Ochotnica ), với Lubań ( 1225m ) là đỉnh cao nhất của nó theo sau là Pasterski Wierch, Runek và Marszałek.[1] Các rặng núi phía tây bắc bao gồm Obidowiec và đỉnh Suhora (1000 m) có đài quan sát thiên văn thuộc sở hữu và điều hành bởi Đại học Sư phạm Kraków .[2]

Có một số hang động nhỏ hơn ở Gorce, được chạm khắc trong đá trầm tích và các khối cuội kết của nó tạo thành Vành đai Flysch Carpathian . Lượng mưa hàng năm cao là do không khí bị các ngọn núi đẩy lên và tích tụ thành mây. Nước mưa chảy nhanh theo mọi hướng do mặt đất dày đặc và bị bao phủ bởi cây cỏ ; nuôi sống sông Raba ở phía tây bắc của Gorce và Dunajec ở phía đông nam. Các con sông khác, được hình thành bởi các ngọn núi bao gồm Kamienica ( 35 km chiều dài), Ochotnica ( 24 km ) và porbianka ( 13 km ), cũng như các dòng lớn như Turbacz, Gorcowy và Lopuszna trong số những dòng khác. Thành phố chính là Nowy Targ trên Dunajec bên dưới thung lũng Podhale,[3] với những ngôi làng giải trí lớn bao gồm Krościenko nad Dunajcem, Szczawa và Ochotnica .[1][4]

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Một con Linh miêu trong Công viên Quốc gia Gorce
Kỳ giông lửa trong môi trường sống tự nhiên của nó

Một phần của dãy núi Gorce được bảo vệ trong Công viên Quốc gia Gorce ( tiếng Ba Lan: Gorczański Park Narodowy ), một khu bảo tồn chim và khu vực bảo tồn đa dạng sinh học được chỉ định vào năm 1981 bởi tỉnh Małopolska,[5] với khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt bao gồm 3611   ha,[6] trên tổng diện tích công viên 7030 ha , ở phần cao nhất của Gorce.[7][8]

Động vật hoang dã bao gồm gần 50 loài động vật có vú,[9] với sóilinh miêu ở đầu; gấu nâu ít gặp hơn,[10]lutra ( rái cá châu Âu quý hiếm), cũng như chồnlửng thường được tìm thấy đào dưới đồng cỏ. Các chuột sóc nâuchuột sóc rừng cùng với chuột glis đều được bảo vệ nghiêm ngặt. Có hơn 200 con hươu đỏ được đếm trong khu vực công viên, cũng như hoẵnglợn rừng,[1] cáo, mèo hoang, thỏ rừng, chồn hôi và chồn ecmin (ermine). Loài bò sát và động vật lưỡng cư bao gồm kỳ nhông lửa ( tiếng Latinh: Salamandra salamandra , loài lưỡng cư duy nhất (một trong hai loài Salamandridae ) sinh ra con cái được hình thành đầy đủ ở độ cao lớn;[11][12][13] biểu tượng của Công viên),[8] cũng như hơn chín mươi loài chim sinh sản bao gồm cú, đại bàng, chim ưng, cá mú, cò đen và những loài khác.[8]

Ở dãy núi Gorce, có hàng trăm loài thực vật, bao gồm cả thực vật Alps và Subalpine, mọc trên đồng cỏ và các khu vực rừng thưa. Rừng bao phủ khoảng 65% các ngọn núi, ở bốn cấp độ khác nhau theo độ cao. Các loài cây phổ biến nhất là sồi, vân samlinh sam,[1] với tuổi trung bình lên tới 100 năm.[8]

Cảnh quan Gorce đã bị thay đổi bởi hoạt động của con người. Những người định cư ban đầu xuất hiện ở khu vực Gorce vào thế kỷ thứ 12. Tu viện đầu tiên được xây dựng tại Ludźmierz bởi các tu sĩ Cisterian vào năm 1234. Trong suốt triều đại của Casimir III Đại đế (Kazimierz Wielki) các lâu đài đầu tiên được xây dựng, kể cả trong Czorsztyn, và nhiều hơn nữa các khu định cư mới, chẳng hạn như thị trấn Krościenko (1348) và các làng: Kluszkowce (1307), Grywałd (1330), và Tylmanowa (1336), được thành lập dọc biên giới với Vương quốc Hungary, tiếp theo là khai thác gỗ và vận chuyển thương mại gia tăng. Tuy nhiên, rừng Gorce phải chịu thiệt hại nhiều nhất trong thế kỷ 19 trong thời kỳ đế quốc Áo-Hung. Cây đã bị chặt trên diện rộng, đặc biệt là ở những khu vực dễ tiếp cận.[1]

Dãy núi Gorce là một khu du lịch nổi tiếng, với bốn mươi con đường mòn được đánh dấu rõ ràng cho các chuyến đi bộ đường dài hai đến bốn giờ, chia thành các cấp độ khó khác nhau với khoảng cách tối đa 17 km ( Đường mòn Raba  Niżna-Turbacz, dài gấp đôi chiều dài trung bình).[14] Đáng chú ý, màu sắc của vệt sáng (dấu hiệu, được cài đặt bởi PTTK cho người đi bộ và người trượt tuyết) với mụch đích nhằm giúp mọi người biết các đường mòn chính và phụ với chiều dài và hướng khác nhau, ví dụ: màu đỏ và màu xanh biểu thị các đường mòn ở phía đông hướng tây nam và bắc-nam, trong khi các vòng ngắn nhất thường sử dụng màu vàng.[15]

  1. Đỏ, đường mòn dài nhất, chạy dọc toàn bộ dãy núi từ cực đông Kroscienko nad Dunajcem, tới Rabka-Zdroj ở cực tây.
  2. Đường Xanh dương, từ đèo Snozka (Przełęcz Snozka) ở phía nam, tới Kamienica phía bắc.
  3. Đường Xanh lá, từ Tylmanowa, Niedzwiedz, Nowy Targ (quận) cắt qua các đỉnh cao nhất (Turbacz, Lubań).
  4. Đường Vàng, từ Ochotnica Gorna, Poreba Wielka, Raba Nizna tới PTTK nhà gỗ trên núi.
  5. Đường Đen; từ Szczwa, Lubomierz, Lopuszna, Mszana Dolna, Rabka-Zdroj cắt qua hàng loạt các đồng cỏ và đèo.
Panorama of the Gorce Mountains

Ghi chú và tài liệu tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g Marek Cieszkowski (2004). “W sercu Beskidów. Geografia i przyroda Gorców (In the Heart of Beskids. Geography and Botany of Gorce)”. Gorce: przewodnik dla prawdziwego turysty (Gorce: Guide for a Qualified Tourist). Oficyna Wydawnicza "Rewasz". tr. 17–32. ISBN 8389188198. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2013.
  2. ^ “Obserwatorium astronomiczne na szczycie Suhora (Mount Suhora Observatory)”. "Pod Jaworzyną" (bằng tiếng Ba Lan). Poręba Wielka - Koninki. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
  3. ^ Timothy J. Cooley (2005). “Podhale” (Google books preview). Making Music In The Polish Tatras: Tourists, Ethnographers, And Mountain Musicians. Indiana University Press. tr. 19 &ndash. ISBN 0253344891. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2013.
  4. ^ Parks Board (2012). “Geologia, Wody, Klimat (Geology, Waters, Climate)”. Przyroda Gorców (Geography of the Gorce Mountains) (bằng tiếng Ba Lan, Anh, và Đức). Gorczański Park Narodowy (Gorce National Park). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2013.
  5. ^ “General information with weather and broad selection of photographs”. Gorce National Park (bằng tiếng Ba Lan). Gorczański Park Narodowy (Portal turystyczny iGorce.eu). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
  6. ^ Study group (2013). “Gorce National Park (GNP). Introduction”. Science and research. Kašperské Hory: Národní park Šumava. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2013.
  7. ^ Janusz Tomasiewicz (2012). “GPN w liczbach (Park in numbers)”. O Gorczańskim Parku Narodowym (About) (bằng tiếng Ba Lan, Anh, và Đức). Gorczański Park Narodowy (Gorce National Park). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2013.
  8. ^ a b c d “Gorczanski National Park”. Polish National Parks. University of Adam Mickiewicz, Poland (Uniwersytet im. Adama Mickiewicza w Poznaniu). 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
  9. ^ Marek Cieszkowski (2004). “Geografia i przyroda Gorców (Geography and botany of Gorce)”. Gorce: przewodnik dla prawdziwego turysty (Gorce: guide for the qualified tourist). Oficyna Wydawnicza "Rewasz". tr. 29&ndash. ISBN 8389188198. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2013. Google translate: Of the nearly fifty species of mammals living in the mountains and their foothills, in the first place, are the large predatory mammals: wolf and lynx. (Spośród blisko pięćdziesięciu gatunków ssaków zamieszkujących góry i ich podnóża na pierwszym miejscu należy wymienić duże ssaki drapieżne: wilka i rysia.)
  10. ^ Christopher Servheen (1999). “Brown bear range in Poland: Gorce Mountains” (Google books preview). Bears: Status Survey and Conservation Action Plan. IUCN (International Union for Conservation of Nature). tr. 90 &ndash. ISBN 2831704626. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2013.
  11. ^ William V. Holt; Amanda R. Pickard; John C. Rodger; David E. Wildt (2002). “Amphibian reproduction: Fire salamander” (Google books preview). Reproductive Science and Integrated Conservation. Cambridge University Press. tr. 361. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. S. salamandra [Fire salamander] and Mertinsiella caucasica [Caucasian salamander] ... in montane regions ... retain their eggs, later giving birth to well-developed young (D&T, 1986).
  12. ^ Frank Indiviglio (2010). “Fire Salamander: Breeding”. Newts and Salamanders: Everything about Selection, Care, Nutrition, Diseases, Breeding, and Behavior. Barron's Educational Series. tr. 79. ISBN 0764142437. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. Individuals living at high elevations give birth to fully formed small salamanders, skipping the larval stage completely.
  13. ^ Zoological Society of San Diego (2013). “Amphibians: Salamander & Newt”. Animal Bytes. San Diego Zoo. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2013. "Fun facts • The fire salamander is the only amphibian that does not hatch from an egg. Instead, the babies develop inside the mother’s body" (webpage: left-hand side).
  14. ^ Janusz Wojtarowicz (2012). “Gorce szlaki turystyczne (trails)”. Informator. Gorce (bằng tiếng Ba Lan). Baza turystyczna Czorsztyn.com. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
  15. ^ “Colors of tourist trails (Kolory szlaków turystycznych)”. Official website. Grupa Beskidzka GOPR. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan