Diana Krall

Diana Krall
Thông tin nghệ sĩ
Sinh16 tháng 11, 1964 (60 tuổi)
Nanaimo, British Columbia, Canada
Thể loạiJazz, pop truyền thống, bossa nova
Nghề nghiệpCa sĩ
Nhạc sĩ dương cầm
Người viết ca khúc
Nhạc cụthanh nhạc
dương cầm
Năm hoạt động1990–tới nay
Hãng đĩaJustin Time (1993)
GRP (1995)
Impulse (1995–2001)
Verve (2002–tới nay)
Hợp tác vớiElvis Costello
WebsiteDianaKrall.com

Diana Jean Krall, sinh ngày 16.11.1964 tại Nanaimo, British Columbia, Canada, là một nhạc sĩ dương cầm, ca sĩ nhạc jazz người Canada, nổi tiếng về giọng nữ trầm của cô.[1] Cô đã bán trên 6 triệu album của mình ở Hoa Kỳ và hơn 15 triệu album trên toàn thế giới. Ngày 11.12.2009, tạp chí Billboard đã bầu cô là nghệ sĩ nhạc jazz thứ nhì của thập niên 2000–2009, xếp cô là một trong những nghệ sĩ có album bán chạy nhất trong thời đại của mình. Cô là ca sĩ nhạc jazz duy nhất có 8 album đầu tay đứng đầu Billboard Jazz Albums.[2] Cho tới nay, cô đã đoạt 2 giải Grammy và 8 Giải Juno. Cô cũng đã đạt được 9 album vàng, 3 album bạch kim và 7 album đa bạch kim.

Cuộc đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Krall sinh ngày 16.11.1964 ở Nanaimo, British Columbia, Canada. Cha cô chơi dương cầm ở nhà, còn mẹ cô hát trong ca đoàn cộng đồng. Năm 4 tuổi cô đã biết chơi dương cầm và năm 15 tuổi cô đã chơi nhạc jazz trong một tiệm ăn địa phương.

Cô được cấp một học bổng để theo học âm nhạc ở Berklee College of Music (trường âm nhạc Berklee) ở Boston trước khi tới Los Angeles để chơi nhạc jazz. Năm 1993 cô trở về Canada để phát hành album đầu tiên của mình.[3]

Năm 2002 mẹ của Krall qua đời vì bệnh đa u tủy (multiple myeloma), vài tháng sau 2 người cố vấn đầy kinh nghiệm của cô là Ray BrownRosemary Clooney cũng từ trần.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1993, Krall phát hành album Stepping Out đầu tay của mình, được thâu cùng với nhạc sĩ chơi guitar bè trầm John Clayton và tay trống Jeff Hamilton. Album này đã khiến nhà sản xuất Tommy LiPuma chú ý, nên2 năm sau ông đã sản xuất album thứ hai của cô nhan đề Only Trust Your Heart (1995).

Album thứ ba của cô - All for You: A Dedication to the Nat King Cole Trio (1996) - được đề cử cho giải Grammy và tiếp tục nằm trong danh sách các đĩa nhạc pop bán chạy nhất trong tuần của tạp chí Billboard 70 tuần lễ liền. Album Love Scenes (1997) thâu chung với Russell Malone (guitar) và Christian McBride (bass) đã nhanh chóng trở thành album rất thành công.

Tháng 8 năm 2000, Krall đi lưu diễn chung với Tony Bennett ở 20 thành phố. Họ lại trình diễn chung cho một bài hát trên loạt phim truyền hình Spectacle: Elvis Costello with...

Các chuyển biên dàn nhạc của Johnny Mandel làm nền tảng cho album When I Look In Your Eyes (1999) của cô. Bản chuyển biên cho album The Look of Love (2001) do Claus Ogerman soạn; album này đạt được danh hiệu album bạch kim và nằm trong nhóm 10 của Billboard 200. Bài hát chủ đề của album này, một bài hát được thâu cho phim Casino Royale bởi Dusty SpringfieldSérgio Mendes, là bài hát được ưa chuộng trong cuối thập niên 1960 và đạt tới số 22 trong danh sách bài được ưa chuộng hàng tuần đương thời. Tháng 9 năm 2001, Krall bắt đầu chuyến lưu diễn trên thế giới. Buổi hòa nhạc của cô ở Paris Olympia được thâu âm và được phát hành như album nhạc thâu âm trực tiếp đầu tiên của cô từ buổi biểu diễn với nhan đề Diana Krall - Live in Paris. Album này cũng có các bài "Just The Way You Are" của Billy Joel và "A Case Of You" của Joni Mitchell được thâu lại.

Phim The Score (năm 2001) với các diễn viên Robert De Niro và Marlon Brando, cũng thể hiện bài hát của Krall nhan đề: "I’ll Make It Up As I Go" do David Foster, do một nhạc sĩ Canada sáng tác.[4]

Sau khi kết hôn với Elvis Costello, cô làm việc chung với anh như người viết lời ca và bắt đầu sáng tác các ca khúc riêng của mình, kết quả là album The Girl in the Other Room. Album này được phát hành trong tháng 4 năm 2004, đã nhanh chóng đứng vào hàng top 5 ở Vương quốc Anh và lọt vào danh sách 40 album hàng đầu ở Úc.

Cô tham gia album Genius Loves Company năm 2004 của Ray Charles với ca khúc "You Don't Know Me".

Trình diễn trực tiếp ở "The Paramount Theater" tại Charlottesville, Virginia

Cuối tháng 5 năm 2007, Krall tham gia trong một đợt quảng cáo của Lexus.[5] Cô cũng hát bài "Dream a Little Dream of Me" với sự đệm đàn dương cầm của Hank Jones.

Album Quiet Nights được phát hành ngày 31.3.2009.

Krall cũng sản xuất album Love Is the Answer của Barbra Streisand, phát hành ngày 29.9.2009.[6] Năm 2011 Krall sang thăm Sri Lanka, tuy nhiên, cuộc viếng thăm này là hoàn toàn riêng tư. Tháng 9 năm 2012, cô tháp tùng Paul McCartneyCapitol Studios trong cuộc trình diễn trực tiếp album "Kisses on the Bottom" của ông, được chiếu trực tiếp trên internet.

Ngày 13.9.2012, Krall trình diễn bài Fly Me to the Moon tại cuộc tưởng niệm nhà du hành vũ trụ Neil Armstrong ở thành phố Washington, D.C.

Album Glad Rag Doll, album mới đây nhất của cô được phát hành ngày 2.10.2012.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Krall kết hôn với Elvis Costello, một nhạc sĩ người Anh ngày 6.12.2003 tại khu nhà của Elton John bên ngoài thành phố London.[7] Họ có hai con sinh đôi - Dexter Henry Lorcan và Frank Harlan James – sinh ngày 6.12.2006 ở thành phố New York.[8]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Diana Krall chơi dương cầm của nhà sản xuất đàn Steinway
Studio albums
Live albums
DVD

Danh mục phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh mục phim và phim truyền hình
Năm Tên Vai diễn Ghi chú
1999 At First Sight Ca sĩ
1997—1998 Melrose Place Bản thân cô "A Shot in the Dark" (Season 6, Episode 8, uncredited)
"Ball N' Jane" (Season 7, Episode 4)
2001 Jazz Seen: The Life and Times of William Claxton Bản thân cô[9] Phim tài liệu
2003 Anything Else Bản thân cô
2003 De-Lovely Người trình diễn âm nhạc hát bài "Just One of Those Things"
2005 Mississippi Rising Bản thân cô Phim tài liệu truyền hình
2008—2009 Spectacle: Elvis Costello with... Bản thân cô "Tony Bennett" (Season 1, Episode 5)
"Diana Krall Interviewed by Elton John" (Season 1, Episode 12)
2009 Public Enemies ca sĩ Torch

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải Grammy

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Đề cử / Tác phẩm Giải thưởng Result
1996 All for You: A Dedication to the Nat King Cole Trio Album thanh nhạc Jazz hay nhất đề cử
1997 Love Scenes Album thanh nhạc Jazz hay nhất đề cử
2000 When I Look in Your Eyes Album của Năm đề cử
Trình diễn thanh nhạc Jazz xuất sắc nhất đoạt giải
Album sáng tạo hay nhất, Phi cổ điển
(to Al Schmitt)
đoạt giải
2002 "Better Than Anything" nhạc Pop kết hợp với thanh nhạc hay nhất đề cử
The Look of Love Album sáng tạo hay nhất, Phi cổ điển
(to Al Schmitt)
đoạt giải
2003 Live in Paris Album thanh nhạc Jazz hay nhất đoạt giải
2005 "I Should Care" phối nhạc đệm cho thanh nhạc hay nhất đề cử
2007 From This Moment On Album thanh nhạc Jazz hay nhất đề cử
2008 These Days (as featured artist) Album của năm đề cử
2010 Yo-Yo Ma & Friends: Songs of Joy & Peace Album phối hợp nhạc cổ điển hay nhất đề cử
"Quiet Nights" Giải Grammy cho phối nhạc đệm cho thanh nhạc hay nhất
(to Claus Ogerman)
đoạt giải

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Music review: Diana Krall”. Barnes & Noble. ngày 18 tháng 9 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  2. ^ "Best of the 2000s - Artists of the Decade" positions 51–60, Billboard
  3. ^ “In Step With: Diana Krall”. Parade Magazine. ngày 25 tháng 4 năm 2004.
  4. ^ DVD (ending Credits), Universum Film GmbH & Co. KG., Constantin Films and BMG Video, Germany, 2005
  5. ^ Lexus commercial trên YouTube
  6. ^ Caulfield, Keith (ngày 17 tháng 10 năm 2009). “Streisand Leads A Record Eight Debuts In Top 10”. Billboard. Nielsen Business Media. 121 (41): 36. ISSN 0006-2510.
  7. ^ Susman, Gary (ngày 10 tháng 12 năm 2003). “Get Happy Elvis Costello marries Diana Krall. The singers wed in at Elton John's castle in England on Saturday”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2011.
  8. ^ “Costello and Krall have twin boys”. BBC News Online. ngày 9 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2010.
  9. ^ Cast list for Jazz Seen at IMDb
  10. ^ Posted by orderbceditor (ngày 15 tháng 1 năm 2009). “2000 Recipient: Diana Krall | Order of BC”. Orderofbc.gov.bc.ca. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  11. ^ “University of Victoria, Victoria, British Columbia, Canada, Media releases”. Communications.uvic.ca. ngày 3 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  12. ^ “Canada's Walk of Fame celebrating Inductee Diana Krall”. Canadaswalkoffame.com. ngày 16 tháng 11 năm 1964. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  13. ^ “Order of Canada”. Archive.gg.ca. ngày 30 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  14. ^ “Nanaimo Harbourfront Plaza Renamed”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2011.
  15. ^ “Honorary Board”. Themmrf.org. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  16. ^ “Grand and Upright Pianos”. Truy cập 3 tháng 10 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Hành trình 18 năm từ TTTM sang chảnh bậc nhất đến thảm cảnh phá sản của Parkson
Hành trình 18 năm từ TTTM sang chảnh bậc nhất đến thảm cảnh phá sản của Parkson
Parkson tham gia vào thị trường Việt Nam từ năm 2005 và trở thành một trong những siêu thị bán lẻ hàng hiệu quốc tế đầu tiên tại đây.
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Đây là bản dịch lời của bài [Polumnia Omnia], cũng là bản nhạc nền chủ đạo cho giai đoạn 2 của Boss "Shouki no Kami, Kẻ Hoang Đàng".
Hướng dẫn cày Genshin Impact tối ưu và hiệu quả nhất
Hướng dẫn cày Genshin Impact tối ưu và hiệu quả nhất
Daily Route hay còn gọi là hành trình bạn phải đi hằng ngày. Nó rất thú vị ở những ngày đầu và rất rất nhàm chán về sau.
[Genshin Impact] Giới thiệu Albedo - Giả thuật sư thiên tài
[Genshin Impact] Giới thiệu Albedo - Giả thuật sư thiên tài
Chuyện kể rằng, một ngày nọ, khi đến Mondstadt, anh ấy nhanh chóng được nhận làm "Hội Trưởng Giả Kim Thuật Sĩ" kiêm đội trưởng tiểu đội điều tra