Hồ Don Juan

Hồ Don Juan
Hình ảnh vệ tinh của Hồ Don Juan
Địa lý
Khu vựcĐông Nam Cực
Tọa độ77°33′52″N 161°10′20″Đ / 77,56444°N 161,17222°Đ / -77.56444; 161.17222
Kiểu hồhồ siêu mặn
Quốc gia lưu vực(thuộc Nam Cực)
Độ dài tối đa300 m (980 ft)
Độ rộng tối đa100 m (330 ft)
Diện tích bề mặt0,03 km2 (0,012 dặm vuông Anh)
Độ sâu trung bình16 in (410 mm)
Độ sâu tối đa3 ft (0,91 m)
Dung tích3.000 m3 (110.000 ft khối)
Cao độ bề mặt116 m (381 ft)
Các đảokhông có
Khu dân cưTrạm Vanda
(14 km về phía đông)
Cận cảnh Hồ Don Juan

Hồ Don Juan là một hồ siêu mặn có diện tích nhỏ và nông ở phía tây thung lũng Wright (South Fork), Victoria Land, Nam Cực, 9 kilômét (5,6 mi) về phía tây từ hồ Vanda. Hồ nằm giữa dãy Asgard ở phía nam và dãy Dais ở phía bắc. Ở đầu phía tây có một nhánh nhỏ và sông băng. Hồ Don Juan là hồ mặn nhất ở Nam Cực và đồng thời là một trong những vùng nước mặn nhất trên Trái đất.[1] Độ mặn này cho phép nước duy trì ở trạng thái lỏng ngay cả ở nhiệt độ thấp tới −50 °C (−58 °F)[2][3] do sự liên kết của muối với các phân tử nước.

Hồ Don Juan được khám phá vào năm 1961 bởi George H. Meyer. Hồ được đặt tên theo hai phi công trực thăng, Trung úy Don Roe và Trung úy John Hickey, người điều khiển chiếc trực thăng liên quan đến đây.[4]

Độ mặn

[sửa | sửa mã nguồn]
Hồ Don Juan nằm gần góc dưới bên trái (phía tây nam) của bản đồ

Hồ Don Juan là một ao hay hồ siêu mặn, đáy phẳng. Hồ có tổng chất rắn hòa tan cao thứ hai trong hồ sơ ghi chép, với độ mặn lớn hơn Biển Chết hoặc Hồ Assal (Djibouti) (điều tương tự cũng đúng với Hồ Vanda và có lẽ các hồ khác trong Thung lũng khô McMurdo). Độ mặn thay đổi theo thời gian từ 200 đến 474 g/L, bị chi phối bởi calci chloride, cao hơn 18 lần độ mặn của biển, 1,3 lần so với Biển Chết. Đây là hồ siêu mặn duy nhất ở Nam Cực gần như không bao giờ đóng băng.[5] Khu vực xung quanh Hồ Don Juan được phủ bởi các muối natri chloridecalci chloride lắng đọng lại khi nước bay hơi.[6][7]

Diện tích và thể tích của Hồ Don Juan luôn thay đổi theo thời gian. Theo bản đồ địa hình USGS xuất bản năm 1977, khu vực này rộng khoảng 0,25 km2 (62 mẫu Anh). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hồ đã bị thu nhỏ đáng kể. Độ sâu tối đa trong năm 1993–1994 được mô tả là "sâu bằng bàn chân" (30 cm). Vào tháng 1 năm 1997, hồ sâu khoảng 10 xentimét (3,9 in);[5] vào tháng 12 năm 1998, hồ gần như cạn, diện tích chỉ còn vài chục mét vuông. Hầu hết lượng nước còn lại nằm xung quanh những tảng đá lớn trong hồ.[8]

Dạng sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nghiên cứu về các dạng sống trong độ mặn trong nước (nước muối cô đặc) của Hồ Don Juan vẫn còn mơ hồ.[9][10]

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Yamagata, N.; T. Torii, S. Murata. “Report of the Japanese summer parties in Dry Valleys, Victoria Land, 1963–65; V – Chemical composition of lake waters”. Antarctic Record. 29: 53–75.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Trọng Nhân (ngày 16 tháng 10 năm 2018). “Biển nào mặn nhất, nhạt nhất thế giới?”. Tuổi trẻ Online.
  2. ^ Andrea Thompson (ngày 22 tháng 11 năm 2017). “How Did This Weird, Super-Salty Pond Form in Antarctica?”. Live Science. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2019.
  3. ^ Keith Cooper (ngày 28 tháng 11 năm 2017). “Salty Antarctic Pond Could Provide Clues about Mars' Water”. NASA. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2019.
  4. ^ Vanjo, Grobljar. “Don Juan Pond and Lake Vanda”. pbase.com. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  5. ^ a b Salty Antarctic pond could be a replica of Mars' water. Astrobiology Magazine. ngày 23 tháng 11 năm 2017.
  6. ^ Hammer, U.T. (1986). Saline Lake Ecosystems of the World. Springer. tr. 109. ISBN 9789061935353. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2018.
  7. ^ Oren, Aharon (2007). “Salts and Brines”. Trong Whitton, Brian A.; Potts, Malcolm (biên tập). The Ecology of Cyanobacteria: Their Diversity in Time and Space. Springer. tr. 287. ISBN 9780306468551. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2018.
  8. ^ “Lake Levels”. McMurdo Dry Valleys Long-Term Ecological Research. Bản gốc (csv) lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2018.
  9. ^ Siegel, B.Z.; McMurty, G.; Siegel, S.M.; Chen, J.; Larock, P. (ngày 30 tháng 8 năm 1979). “Life in the calcium chloride environment of Don Juan Pond, Antarctica”. Nature. 280 (5725): 828–829. Bibcode:1979Natur.280..828S. doi:10.1038/280828a0.
  10. ^ Chang, Kenneth (ngày 28 tháng 9 năm 2015). “NASA Says Signs of Liquid Water Flowing on Mars”. The New York Times. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Karakai Simulation Game Việt hóa
Karakai Simulation Game Việt hóa
Đây là Visual Novel làm dựa theo nội dung của manga Karakai Jouzu no Takagi-san nhằm mục đích quảng cáo cho anime đang được phát sóng
6 cách để giao tiếp cho người hướng nội
6 cách để giao tiếp cho người hướng nội
Dù quan điểm của bạn có dị đến đâu, khác biệt thế nào hay bạn nghĩ là nó dở như thế nào, cứ mạnh dạn chia sẻ nó ra. Vì chắc chắn mọi người xung quanh cũng sẽ muốn nghe quan điểm của bạn
Cung mệnh và chòm sao của Kaveh - Genshin Impact
Cung mệnh và chòm sao của Kaveh - Genshin Impact
Hiện tại thì cả tên cung mệnh lẫn tên banner của Kaveh đều có liên quan đến thiên đường/bầu trời, tên banner lão là 天穹の鏡 (Thiên Khung chi Kính), bản Việt là Lăng kính vòm trời, bản Anh là Empryean Reflection (Heavenly reflection
Tìm hiểu về Puskas Arena - Sân vận động lớn nhất ở thủ đô Budapest của Hungary
Tìm hiểu về Puskas Arena - Sân vận động lớn nhất ở thủ đô Budapest của Hungary
Đây là một sân vận động tương đối mới, được bắt đầu xây dựng vào năm 2016 và hoàn thành vào cuối năm 2019