Hổ Borneo

Bích họa hổ ở ở Kuching

Hổ Borneo là một quần thể hổ đã tuyệt chủng được cho là có thể đã sống ở đảo Borneo của lục địa Sunda trong thời tiền sử[1][2]. Trong khi những trường hợp một con hổ sinh ra còn sống bằng xương bằng thịt chưa được ghi nhận một cách thuyết phục thì người dân bản địa lại có niềm tin vào sự tồn tại của nó[3][4].

Ghi nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Các cuộc khai quật khảo cổ ở SarawakSabah đã tìm ra một chiếc răng nanh trên, xương hàm và xương chi trước (metacarpal) được xác định là của một con hổ. Do đó, người ta đã suy luận rằng những con hổ đã có mặt ở Borneo trong thời kỳ cuối của PleistoceneHolocen sớm[5]. Một mảnh xương tương tự cũng được tìm thấy ở đảo Palawan của Philippines. Các nhà khảo cổ cho rằng không có khả năng những mảnh vỡ này được giao dịch giữa các khu vực khác nhau trong thời kỳ Pleistocene. Người bản địa ở Borneo luôn lưu giữ ký ức về con hổ một cách sống động trong văn hóa của họ bằng cách coi các bộ phận cơ thể của nó là một kỹ vật gia truyền (gia bảo), do đó, người ta đã ngụ ý rằng những con hổ sinh ra đã tồn tại lâu hơn từ thời tiền sử[6].

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Người ta đã cho rằng những hổ sinh ra ở Borneo có thể có kích thước khá nhỏ, tương tự như những con hổ Sumatra[7]. Theo người dân bản địa thì những con hổ này lớn hơn một con báo mây và phần lớn chúng có màu nâu với các sọc mờ[3]. Về hành vi và sinh thái của chúng thì Borneo là nơi sinh sống của những loài mà hổ sẽ săn mồi, chẳng hạn như lợn râu Borneo, và hoẵng (mang) và nai (hươu sambar). Theo người dân bản địa, không giống như báo mây Sunda, con hổ này không trèo cây được[3], chính vì vậy mà người ta càng tin rằng chúng là hổ chứ không phải báo.

Một người đàn ông DayakKalimantan trong trang phục truyền thống. Lưu ý các sọc.

Những dấu tích về loài hổ này được tìm thấy vào cuối thế kỷ 20 đã bị cáo buộc là chưa đúng sự thật. Năm 1975, ông Douchan Gersi tuyên bố đã nhìn thấy một con hổ ở Đông Kalimantan. Ông đã chụp hai bức ảnh của con vật[8]. Những bức ảnh này mô tả một con hổ, nhưng nguồn gốc của nó vẫn chưa rõ ràng [3], và tính xác thực của các bức ảnh đã bị nghi ngờ[1]. Nó có thể là một tù nhân đã trốn thoát[8] (những người tù thường được mặc áo sọc). Vào năm 1995, người dân bản địa ở Trung Kalimantan tuyên bố đã nghe thấy tiếng hổ gầm và họ có thể phân biệt được tiếng gầm của hổ và tiếng kêu của các loài động vật khác[3]. Ngoài ra, những bức phù điêu kiểu Trung Quốc của một chiến binh cưỡi hổ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Semenggoh, Sarawak, Malaysia Borneo hoặc những di chỉ tại một ngôi chùa Phật giáo kiểu Trung Quốc tại Kuching, Sarawak cũng chưa thể khẳng định rằng đây là mô tả về loài hổ Borneo vì ảnh hưởng về mặt văn hóa của loài hổ nói chung.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Medway, L. (1977). “The Niah Excavations and an Assessment of the Impact of Early Man on Mammals in Borneo” (PDF). Asian Perspectives. 20 (1): 51−69.
  2. ^ Medway, L. (1977). Mammals of Borneo: field keys and an annotated checklist. Kuala Lumpur: Malaysian Branch of the Royal Asiatic Society No. 7.
  3. ^ a b c d e Meijaard, E. (1999). “The Bornean Tiger; Speculation on its Existence” (PDF). Cat News (30): 12−15.
  4. ^ Kitchener, A. C., Yamaguchi, N. (2010). “What is a tiger? Biogeography, Morphology, and Taxonomy”. Trong Ronald Tilson, Philip J. Nyhus (biên tập). Tigers of the world: The Science, Politics and Conservation of Panthera tigris. Cambridge: Academic Press. tr. 59–81. ISBN 9780815515708.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  5. ^ Piper, P. J.; Earl of Cranbrook, Rabett, R. J. (2007). “Confirmation of the presence of the tiger Panthera tigris (L.) in Late Pleistocene and Holocene Borneo”. Malayan Nature Journal. 59 (3): 259–267. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2018.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  6. ^ Piper, P. J.; Ochoa, J.; Lewis, H.; Paz, V.; Ronquillo, W. P. (2008). “The first evidence for the past presence of the tiger Panthera tigris (L.) on the island of Palawan, Philippines: extinction in an island population”. Palaeogeography, Palaeoclimatology, Palaeoecology. 264: 123–127. doi:10.1016/j.palaeo.2008.04.003.
  7. ^ Kitchener, A. C. (1999). “Tiger distribution, phenotypic variation and conservation issues”. Trong Seidensticker, J.; Jackson, P.; Christie, S. (biên tập). Riding the Tiger: Tiger Conservation in Human-Dominated Landscapes. Cambridge University Press. tr. 19−39. ISBN 0521648351.
  8. ^ a b Gersi, D. (1975). Dans la jungle de Bornéo (bằng tiếng Pháp). Paris: Éditions G. P.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
IT đã không còn là vua của mọi nghề nữa rồi
IT đã không còn là vua của mọi nghề nữa rồi
Và anh nghĩ là anh sẽ code web như vậy đến hết đời và cuộc sống sẽ cứ êm đềm trôi mà không còn biến cố gì nữa
Nhân vật Narberal Gamma (Nabe) - Overlord
Nhân vật Narberal Gamma (Nabe) - Overlord
Narberal Gamma (ナ ー ベ ラ ル ・ ガ ン マ, Narberal ・ Γ) là một hầu gái chiến đấu doppelgänger và là thành viên của "Pleiades Six Stars
Yuki Tsukumo - Nhân vật tiềm năng và cái kết đầy nuối tiếc
Yuki Tsukumo - Nhân vật tiềm năng và cái kết đầy nuối tiếc
Jujutsu Kaisen là một series có rất nhiều nhân vật khác nhau, với những khả năng, tính cách và cốt truyện vô cùng đa dạng
Nhân vật Beta - The Eminence in Shadow
Nhân vật Beta - The Eminence in Shadow
Cô ấy được biết đến với cái tên Natsume Kafka, tác giả của nhiều tác phẩm văn học "nguyên bản" thực sự là phương tiện truyền thông từ Trái đất do Shadow kể cho cô ấy.