Hiệp ước Hay–Pauncefote (Hay–Pauncefote Treaty) là bản hiệp ước được ký kết giữa Hoa Kỳ với Vương quốc Anh vào ngày 18 tháng 11 năm 1901, như là một sự khởi đầu cho việc xây dựng Kênh đào Panama. Hiệp Ước này đã thay thế cho Hiệp ước Clayton–Bulwer được ký kết trước đó vào năm 1850, qua đó đánh dấu quyền kiểm soát của Hoa Kỳ lên kênh đào qua eo đất Trung Mỹ nối giữa thái Bình Dương với đại Tây Dương. Trong hiệp ước Clayton–Bulwer, cả hai quốc gia đã nhất trí không độc chiếm việc xây dựng kênh đào qua eo đất Trung Mỹ và duy trì trạng thái trung lập đối với kênh đào này.
Năm 1850, Anh và Hoa Kỳ ký Hiệp ước Clayton – Bulwer, theo đó một kênh đào sẽ được xây dựng ở khu vực Trung Mỹ nhằm nối liền vận tải đường biền giữa Thái Bình Dương với Đại Tây Dương, được đảm bảo ở trạng thái trung lập và không một quốc gia nào có quyền chiếm đóng hoặc can thiệp vào các quốc gia thuộc khu vực kênh đào. Tuy nhiên ở Hoa Kỳ do sự phát triển ngày càng mạnh mẽ trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, hiệp ước Clayton – Bulwer ngày càng bộc lộ những hạn chế của nó đối với các chính sách của giới cầm quyền Hoa Kỳ ở khu vực Mỹ Latin. Đồng thời Vương quốc Anh nhận ra rằng ảnh hưởng của họ ở khu vực Trung và Nam Mỹ ngày càng suy giảm, cần thiết buộc phải chia sẻ quyền lợi cho Hoa Kỳ như là một đối trọng đủ mạnh nhằm ngăn chặn ảnh hưởng ngày càng tăng của Đế quốc Đức lên khu vực này. Các cuộc đàm phán giữa hai bên được mở ra, trong đó phía Đế quốc Anh cố gắng chấp nhận các yêu cầu của Hoa Kỳ, miễn là chính quyền Hoa Kỳ tôn trọng và cam kết không vi phạm những nguyên tắc trung lập đã được quy định trong hiệp ước trước đó.
Bản dự thảo hiệp ước được tổng thống William McKinley đưa lên Thượng viện Mỹ vào ngày 5 tháng 2 năm 1900, về cơ bản như sau:
Những điều khoản trên đã kích động sự thù địch mạnh mẽ ở Hoa Kỳ, và thượng nghị sỹ Henry G. Davis phải đệ trình một bản sửa đổi bởi Ủy ban Đối Ngoại Hoa Kỳ. Những điều khoản được sửa chữa và bổ sung, theo đó trạng thái trung lập của kênh đào không ngăn cản Hoa Kỳ thực hiện các hoạt động quân sự gần đó. Thượng viện Mỹ sau đó đã phê chuẩn bản sửa đổi này vào ngày 20 tháng 12 năm 1900, tuy nhiên phía Vương quốc Anh lại bác bỏ, và bản sửa đổi này nhanh chóng hết hiệu lực vào ngày 5 tháng 3 năm 1901.
Mặc dù có một số bất đồng, cả hai phía Anh và Hoa Kỳ tiếp tục tiến trình đàm phán, lúc này hai bên đều có sự nhượng bộ lẫn nhau. Đến ngày 18 tháng 11 năm 1901, bản hiệp ước hoàn chỉnh được ký kết giữa Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Hay với Đại sứ Anh tại Hoa Kỳ là Pauncefote. Tổng thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt trình lên Thượng viện và được phê chuẩn ngày 16 tháng 12. Bản hiệp ước được điều chỉnh này đã chấm dứt hiệu lực của hiệp ước Clayton – Bulwer, cho phép Hoa Kỳ xây dựng các công trình phòng thủ quân sự nhưng không được sử dụng cho các hoạt động quân sư trong thời chiến. Hiệp ước còn trao cho Hoa Kỳ quyền xây dựng và quản lý kênh đào, đồng thời cho phép tất cả các quốc gia tự do đi qua kênh đào, và ngăn cấm việc chiếm đoạt kênh đào bằng vũ lực.
Điều I: Hiệp ước được ký ngày hôm nay sẽ thay thế bản hiệp ước vào được ký vào ngày 19 tháng 4 năm 1850.
Điều II: Chúng tôi thỏa thuận (đồng ý) rằng Kênh Đào sẽ được thi công dưới sự bảo hộ (giám sát) của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, dù là từ chính kinh phí của họ, từ các khoản tặng hay mượn từ các cá nhân hay tổ chức, hay từ các khoản quyên góp hoặc mua trái phiếu, cổ phần, và đồng ý rằng, chiếu theo các điều khoản của hiệp ước, Chính phủ Hoa Kỳ sẽ được hưởng tất cả các quyền liên quan trong việc thi công kênh đào, cũng như sự độc quyền về mặt quản lý pháp lý và điều hành kênh đào.
Điều III: Trên cơ sở trung lập kênh đào, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tiếp nhận những quy tắc dưới đây đã được ghi nhận trong Công ước Constantinople ký vào ngày 28 [29] tháng 10 năm 1888 về tự do hàng hải trên kênh đào Suez, cụ thể như sau:
Điều IV: Không có sự thay đổi chủ quyền lãnh thổ, các quan hệ quốc tế của quốc gia, các quốc gia đi trên kênh đào ảnh hưởng đến các nguyên tắc chung về sự trung lập hoặc nghĩa vụ của các bên ký hiệp định dưới hiệp ước này.
Điều V: Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, với sự cố vấn từ quốc hội, và Quốc vương Liên hiệp Anh sẽ phê chuẩn hiệp ước này; việc phê chuẩn sẽ được trao đổi ở Washington hoặc London sớm nhất trong vòng 6 tháng kể từ ngày ký kết.