Trụ sở | Silverstone, Northamptonshire, England |
---|---|
Nhà sáng lập | Eddie Jordan |
Nhân viên nổi tiếng | Gary Anderson Adrian Burgess Mike Gascoyne John Iley Sam Michael Rob Smedley Mark Gallagher |
Tay đua nổi tiếng | Rubens Barrichello Giancarlo Fisichella Heinz-Harald Frentzen Jarno Trulli Ralf Schumacher Damon Hill Eddie Irvine Tiago Monteiro Nick Heidfeld Takuma Sato Martin Brundle Bertrand Gachot Jean Alesi Timo Glock Michael Schumacher |
Tên mới | Midland F1 Racing |
Thành tích tại Công thức 1 | |
Chặng đua đầu tiên | Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ 1991 |
Số chặng đua đã tham gia | 250 |
Động cơ | Ford, Yamaha, Hart, Peugeot, Mugen-Honda, Honda, Toyota |
Vô địch hạng mục đội đua | 0 (Thành tích tốt nhất: Hạng 3, 1999) |
Vô địch hạng mục tay đua | 0 (Thành tích tốt nhất: Hạng 3, 1999, Frentzen) |
Chiến thắng | 4 |
Số lần lên bục trao giải | 19 |
Vị trí pole | 2 |
Vòng đua nhanh nhất | 2 |
Chặng đua cuối cùng/gần nhất | Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc 2005 |
Jordan Grand Prix là đội đua xe ô tô Công thức 1 thi đấu trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2005. Tên đội đua được đặt theo tên của người sáng lập, một doanh nhân người Ireland, ông Eddie Jordan. Đội có trụ sở tại Silverstone, Vương quốc Anh nhưng chạy đua với giấy phép của Ireland.
Có rất nhiều tay đua Công thức 1 tên tuổi đã từng là thành viên đội đua này như Rubens Barrichello, Giancarlo Fisichella, Ralf Schumacher, và đặc biệt là huyền thoại Công thức 1 người Đức Michael Schumacher.
Đầu năm 2005, đội được bán cho công ty Midland Group và sau đó thi đấu với tên gọi Midland F1.
Eddie Jordan đã là tay đua Công thức 1 vào cuối những năm 1970 trong một thời gian ngắn trước khi thành lập đội đua Eddie Jordan Racing vào đầu những năm 1980[1]. Đội lần đầu tiên trở nên nổi bật trong giải đua Công thức 3 nước Anh năm 1983 với cuộc đọ sức giữa tay đua thử nghiệm một lần của Jordan Ayrton Senna và tay đua Jordan-Ralt Martin Brundle. Brundle đã bị tay đua người Brasil vượt qua ở vòng cuối cùng của giải vô địch. Đội đã giành được chức vô địch ở giải đua Công thức Quốc tế 3000 vào năm 1988 và giành chiến thắng ở chặng đua đầu tiên ở hạng mục này với Johnny Herbert. Năm 1989, Jordan giành chức vô địch của giải F3000 với ngôi sao Công thức 1 trong tương lai Jean Alesi. Nhóm cũng đã điều hành các tay đua Công thức 1 trong tương lai như Martin Donnelly và Eddie Irvine trong F3000.
Đối với mùa giải 1991, đội Jordan tham gia Công thức 1 và nhanh chóng nhận được hỗ trợ tài chính từ Fujifilm, nhà sản xuất đồ uống 7 Up và công ty quảng cáo du lịch Ireland. Jordan 191 là chiếc xe đua đầu tiên mà đội tự thiết kế cho mùa giải này. Công việc phát triển phần lớn do kỹ sư Gary Anderson thực hiện. Chiếc xe này đã sử dụng động cơ tám xi-lanh của Cosworth. Tuy nhiên, không giống như các đội đua khách hàng khác của Cosworth, nó không phải là động cơ DFR tương đối yếu, mà là động cơ từ thế hệ HB được Benetton sử dụng độc quyền vào năm 1990.
Các tay đua chính của đội là Andrea de Cesaris, người đã mang về cho đội thêm tiền tài trợ từ Marlboro Italia, và Bertrand Gachot. Khi Gachot bị buộc tội hành hung một tài xế taxi ở Luân Đôn vào cuối mùa hè năm 1991, ông ta đã bị kết án tù. Do vậy đội đã thay thế ông ta bằng tay đua người Đức Michael Schumacher trước thềm giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ. Thế nhưng, ngay tại cuộc đua tiếp theo, Schumacher đã chuyển sang Benetton và Jordan đã trao chỗ lái còn trống của Gachot lần lượt cho Roberto Moreno và Alessandro Zanardi trong các chặng đua còn lại của mùa giải.
Mùa giải đầu tiên là một thành công: Đội là đội mới thành công nhất trong mười năm qua. De Cesaris đã hoàn thành năm cuộc đua ở vị trí tính điểm, Gachot ba lần. Ngoài ra, Gachot đã lập vòng đua nhanh nhất ở giải đua ô tô Công thức 1 Hungary. Cuộc đua của Michael Schumacher với đội đã gây chấn động: Schumacher vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ bảy mặc dù ông ta đã khá bất ngờ với vị trí đó. Tuy nhiên, trong cuộc đua, ông ta đã không thể hoàn thành một vòng đua nào vì lỗi máy móc.
Jordan đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các tay đua với 13 điểm.
Trong mùa giải thứ hai của đội, đội Jordan đã đạt được một số thành công. Jordan đã thay đổi nhiều thiết bị kỹ thuật vào đầu mùa giải và hiện sử dụng động cơ mười hai xi-lanh của Yamaha thay vì động cơ Cosworth. Sự thay đổi chủ yếu là vì lý do tài chính: đội đang gặp khó khăn về tài chính do chi phí của mùa giải đầu tiên và do vậy đã nhận được động cơ miễn phí Yamaha ít được săn đón. Gary Anderson đã điều chỉnh khung gầm hiện có cho động cơ mới và chiếc xe đua của đội trong mùa giải này tên là Jordan 192. Tay đua chính của đội là Stefano Modena và Maurício Gugelmin.
Kết quả cuộc đua mà đội Sasol Jordan Yamaha đạt được trong năm thứ hai là một sự thất vọng so với năm đầu tiên của họ. Các nhà quan sát đánh giá diễn biến của mùa giải 1992 là một "thảm họa"[2]. Tại chặng đua mở màn ở Nam Phi, Modena không vượt qua được vòng phân hạng và cũng không làm được như vậy ở các chặng đua ở Monaco, Hungary và Bồ Đào Nha. Theo Gary Anderson, việc không đủ tiêu chuẩn đã khiến Modena mất tinh thần: "Vì tính khí nóng nảy, Modena đã không thể vượt qua các vấn đề tâm lý. Chúng tích tụ và ngày càng làm suy yếu động lực của ông.”[2] Tổng cộng, Modena chỉ về đích bốn lần trong mùa giải này. Tại chặng đua cuối cùng của mùa giải, Modena đã về thứ 6 và ghi điểm duy nhất trong năm của Jordan. Gugelmin vượt qua ở tất cả các vòng phân hạng, nhưng không ghi được điểm nào cả. Kết quả tốt nhất của ông là vị trí thứ 7 tại giải đua ô tô Công thức 1 San Marino.
Năm 1993 chứng kiến những thay đổi tiếp theo khi đội một lần nữa thay đổi nhà cung cấp động cơ và lần này đội đã chọn Hart là nhà cung cấp động cơ. Một lần nữa, mùa giải bắt đầu với hai tay đua mới Ivan Capelli và tân binh người Brasil Rubens Barrichello. Capelli rời đi chỉ sau hai cuộc đua và Barrichello chứng kiến năm tay đua khác trở thành đồng đội của mình trong suốt mùa giải 1993. Jordan chỉ cải thiện vừa phải và chỉ ghi được ba điểm. Các dấu hiệu ổn định bắt đầu xuất hiện vào gần cuối mùa giải khi Barrichello đua cùng Eddie Irvine, một cựu tay đua của Jordan trong giải đua F3000. Irvine về thứ sáu và giành được một điểm trong cuộc đua Công thức 1 đầu tiên của mình tại Suzuka. Nó còn đáng nhớ hơn nữa vì Irvine đã vượt một vòng trước Ayrton Senna của McLaren để vượt qua Damon Hill. Sau khi cuộc đua kết thúc, Senna đã đấm vào mặt Irvine sau khi Irvine đẩy ông ta vào một cuộc thảo luận nóng nảy[3].
Barrichello và Irvine trở lại trong mùa giải 1994 và tiếp tục sử dụng động cơ Hart nhưng Irvine đã có một khởi đầu mùa giải tệ hại khi bị cấm thi đấu ở ba cuộc đua vì đua nguy hiểm liều lĩnh. Barrichello đã giúp đội về đích đầu tiên trong vị trí top 3 tại giải đua ô tô Công thức 1 Thái Bình Dưong nhưng gần thiệt mạng trong chặng đua tiếp theo ở San Marino sau một vụ va chạm kinh hoàng ở vòng phân hạng. Đội đã vượt qua những khó khăn này và trở lại phong độ ban đầu khi họ đứng thứ 5 trong bảng xếp hạng các đội đua. Barrichello đã giành được vị trí pole đầu tiên cho Jordan sau một vòng phân hạng ẩm ướt ở Bỉ và đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng các tay đua với 19 điểm. Thành tích này đã khiến các đội lớn của Công thức 1 phải sửng sốt vì một đội có kinh phí thấp như vậy với động cơ do Hart Engineering thiết kế và chế tạo đã giành được vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các đội đua với 28 điểm.
Sau hai năm, Jordan đã thay thế nhà cung cấp động cơ. Từ năm 1995 cho đến 1997, đội đã sử dụng động cơ mười xi-lanh của Peugeot bởi vì Eddie Jordan muốn phát triển cơ sở hạ tầng của đội tốt hơn và mức độ phát triển cao hơn từ Peugeot so với Hart.
Jordan ban đầu có thể duy trì phong độ với sự hỗ trợ của Peugeot. Trong mùa giải 1995, các tay đua Barrichello và Irvine lấy điểm thường xuyên và thỉnh thoảng lên bục vinh quang. Đối với mùa giải 1996, đội được tài trợ bởi nhãn hiệu thuốc lá Benson & Hedges cho đến năm 2002. Tuy nhiên, Irvine đã rời Jordan để tham gia Ferrari và tay đua thay thế Martin Brundle - người mà Eddie Jordan đã từng làm việc cùng nhau ở giải Công thức 3 - không thành công mặc dù có kinh nghiệm trong khi thành tích của Barrichello ổn định hơn rất nhiều. Đó là mùa giải Công thức 1 cuối cùng của Brundle và tay đua Barrichello đầy tham vọng đã chuyển sang đội Stewart mới thành lập của cựu vô địch Công thức 1 Jackie Stewart vào năm 1997.
Vào mùa giải 1997, Jordan một lần nữa sử dụng bộ đôi tay đua mới. Em trai của Michael Schumacher, Ralf, đã ra mắt với đội với tư cách là tay đua tân binh. Cùng với tay đua người Ý Giancarlo Fisichella từ Minardi, ông đã tái lập thành tích của mùa giải thành công nhất cho đội có trụ sở Silverstone cho đến nay. Vị trí thứ ba của Schumacher tại giải đua ô tô Công thức 1 Argentina ở Buenos Aires đánh dấu lần đầu tiên ông lên bục vinh quang trong chặng đua thứ 100 của đội, thế nhưng Fisichella phải bỏ cuộc sau một pha va chạm với đồng đội Schumacher. Tuy nhiên, vào cuối mùa giải, Fisichella là tay đua thành công hơn. Ông đạt vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng các tay đua với tổng cộng 20 điểm và đánh bại được Schumacher. Tuy nhiên, Fisichella đã quyết định rời đội và Jordan đã thay thế ông với Damon Hill, nhà vô địch Công thức 1 năm 1996.
Năm 1998, đội đã ký hợp đồng lớn nhất với cựu vô địch thế giới Damon Hill để thay thế Fisichella. Đội cũng đã thay thế nhà cung cấp động cơ Peugeot bằng động cơ Mugen Honda. Cho đến nửa đầu mùa giải, Jordan đã không ghi được một điểm nào do vấn đề về độ bền bỉ của động cơ. Vào thời điểm đó, họ đã ký hợp đồng với kỹ sư Mike Gascoyne từ đội Tyrrell để củng cố đội ngũ kỹ thuật sau khi giám đốc kỹ thuật lâu năm Gary Anderson đã từ chức vài tháng sau đó[4][5]. Với sự giúp đỡ của Gascoyne, mọi thứ đã được cải thiện đáng kể vào nửa sau mùa giải. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ kịch tính và ẩm ướt năm đó, Hill đã mang về cho đội chiến thắng Công thức 1 đầu tiên sau khi chỉ có mỗi sáu tay đua hoàn thành cuộc đua đó. Ralf Schumacher về đích ở vị trí thứ nhì và giúp đội về đích ở hai vị trí dẫn đầu của cuộc đua đó. Tuy nhiên, đội đã khuyên Schumacher không được phép vượt Hill. Tức giận vì điều này, anh trai Michael của ông nói với đội rằng Ralf sẽ không bao giờ chạy đua cho đội nữa và mua lại hợp đồng của anh trai mình với giá 2 triệu bảng[6]. Sau mùa giải, Hill đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng các tay đua và Ralf đứng thứ 10. Đội đã kết thúc mùa giải này ở vị trí thứ 4 với 34 điểm.
Trong mùa giải này, hai tay đua người Đức Heinz-Harald Frentzen và Ralf Schumacher đổi đội cho năm 1999 (Frentzen chuyển sang Jordan và Ralf chuyển sang Williams) và Hill tiếp tục ở lại đội. Mùa giải của Frentzen đã thành công rực rỡ sau khi ông giành được hai chiến thắng và một vị trí pole. Trong một thời gian ngắn, Frentzen đã là ứng cử viên giành chức vô địch Công thức 1 nhưng sự kém may mắn và các đội đua mạnh hơn là McLaren và Ferrari đã chấm dứt hy vọng giành chức vô địch của ông[7]. Frentzen về thứ ba trong bảng xếp hạng các tay đua và đội cũng về thứ ba trong bảng xếp hạng các tay đua với 61 điểm. Năm 1999 là mùa giải tốt nhất của đội.
Mùa giải | Xe đua | Động cơ | Hãng lốp | Tay đua | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | Tổng điểm | Vị trí trong BXH các đội đua |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1991 | 191 | Ford HB4 3.5 V8 | Goodyear | USA | BRA | SMR | MON | CAN | MEX | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | POR | ESP | JPN | AUS | 13 | 5 | ||||
Bertrand Gachot | 10 | 13 | Ret | 8 | 5 | Ret | Ret | 6 | 6 | 9F | |||||||||||||||
Michael Schumacher | Ret | ||||||||||||||||||||||||
Roberto Moreno | Ret | 10 | |||||||||||||||||||||||
Alessandro Zanardi | 9 | Ret | 9 | ||||||||||||||||||||||
Andrea de Cesaris | DNPQ | Ret | Ret | Ret | 4 | 4 | 6 | Ret | 5 | 7 | 13 | 7 | 8 | Ret | Ret | 8 | |||||||||
1992 | 192 | Yamaha OX99 3.5 V12 | Goodyear | RSA | MEX | BRA | ESP | SMR | MON | CAN | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | POR | JPN | AUS | 1 | 11 | ||||
Stefano Modena | DNQ | Ret | Ret | DNQ | Ret | Ret | Ret | Ret | Ret | DNQ | Ret | 15 | DNQ | 13 | 7 | 6 | |||||||||
Maurício Gugelmin | 11 | Ret | Ret | Ret | 7 | Ret | Ret | Ret | Ret | 15 | 10 | 14 | Ret | Ret | Ret | Ret | |||||||||
1993 | 193 | Hart 1035 3.5 V10 | Goodyear | RSA | BRA | EUR | SMR | ESP | MON | CAN | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | POR | JPN | AUS | 3 | 11 | ||||
Rubens Barrichello | Ret | Ret | 10 | Ret | 12 | 9 | Ret | 7 | 10 | Ret | Ret | Ret | Ret | 13 | 5 | 11 | |||||||||
Ivan Capelli | Ret | DNQ | |||||||||||||||||||||||
Thierry Boutsen | Ret | Ret | 11 | Ret | 12 | 11 | Ret | 13 | 9 | Ret | |||||||||||||||
Marco Apicella | Ret | ||||||||||||||||||||||||
Emanuele Naspetti | Ret | ||||||||||||||||||||||||
Eddie Irvine | 6 | Ret | |||||||||||||||||||||||
1994 | 194 | Hart 1035 3.5 V10 | Goodyear | BRA | PAC | SMR | MON | ESP | CAN | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | POR | EUR | JPN | AUS | 28 | 5 | ||||
Rubens Barrichello | 4 | 3 | DNQ | Ret | Ret | 7 | Ret | 4 | Ret | Ret | RetP | 4 | 4 | 12 | Ret | 4 | |||||||||
Eddie Irvine | Ret | 6 | Ret | Ret | DNS | Ret | Ret | 13 | Ret | 7 | 4 | 5 | Ret | ||||||||||||
Aguri Suzuki | Ret | ||||||||||||||||||||||||
Andrea de Cesaris | Ret | 4 | |||||||||||||||||||||||
1995 | 195 | Peugeot A10 3.0 V10 | Goodyear | BRA | ARG | SMR | ESP | MON | CAN | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | POR | EUR | PAC | JPN | AUS | 21 | 6 | |||
Rubens Barrichello | Ret | Ret | Ret | 7 | Ret | 2 | 6 | 11 | Ret | 7 | 6 | Ret | 11 | 4 | Ret | Ret | Ret | ||||||||
Eddie Irvine | Ret | Ret | 8 | 5 | Ret | 3 | 9 | Ret | 9 | 13 | Ret | Ret | 10 | 6 | 11 | 4 | Ret | ||||||||
1996 | 196 | Peugeot A12 EV5 3.0 V10 | Goodyear | AUS | BRA | ARG | EUR | SMR | MON | ESP | CAN | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | POR | JPN | 22 | 5 | ||||
Rubens Barrichello | Ret | Ret | 4 | 5 | 5 | Ret | Ret | Ret | 9 | 4 | 6 | 6 | Ret | 5 | Ret | 9 | |||||||||
Martin Brundle | Ret | 12 | Ret | 6 | Ret | Ret | Ret | 6 | 8 | 6 | 10 | Ret | Ret | 4 | 9 | 5 | |||||||||
1997 | 197 | Peugeot A14 3.0 V10 | Goodyear | AUS | BRA | ARG | SMR | MON | ESP | CAN | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | AUT | LUX | JPN | EUR | 33 | 5 | |||
Ralf Schumacher | Ret | Ret | 3 | Ret | Ret | Ret | Ret | 6 | 5 | 5 | 5 | Ret | Ret | 5 | Ret | 9 | Ret | ||||||||
Giancarlo Fisichella | Ret | 8 | Ret | 4 | 6 | 9F | 3 | 9 | 7 | 11 | Ret | 2 | 4 | 4 | Ret | 7 | 11 | ||||||||
1998 | 198 | Mugen-Honda MF-301 HC 3.0 V10 | Goodyear | AUS | BRA | ARG | SMR | ESP | MON | CAN | FRA | GBR | AUT | GER | HUN | BEL | ITA | LUX | JPN | 34 | 4 | ||||
Damon Hill | 8 | DSQ | 8 | 10 | Ret | 8 | Ret | Ret | Ret | 7 | 4 | 4 | 1 | 6 | 9 | 4 | |||||||||
Ralf Schumacher | Ret | Ret | Ret | 7 | 11 | Ret | Ret | 16 | 6 | 5 | 6 | 9 | 2 | 3 | Ret | Ret | |||||||||
1999 | 199 | Mugen-Honda MF-301 HD 3.0 V10 | B | AUS | BRA | SMR | MON | ESP | CAN | FRA | GBR | AUT | GER | HUN | BEL | ITA | EUR | MAL | JPN | 61 | 3 | ||||
Damon Hill | Ret | Ret | 4 | Ret | 7 | Ret | Ret | 5 | 8 | Ret | 6 | 6 | 10 | Ret | Ret | Ret | |||||||||
Heinz-Harald Frentzen | 2 | 3 | Ret | 4 | Ret | 11 | 1 | 4 | 4 | 3 | 4 | 3 | 1 | RetP | 6 | 4 | |||||||||
2000 | EJ10(EJ10B) | Mugen-Honda MF-301 HE 3.0 V10 | B | AUS | BRA | SMR | GBR | ESP | EUR | MON | CAN | FRA | AUT | GER | HUN | BEL | ITA | USA | JPN | MAL | 17 | 6 | |||
Heinz-Harald Frentzen | Ret | 3 | Ret | 17 | 6 | Ret | 10 | Ret | 7 | Ret | Ret | 6 | 6 | Ret | 3 | Ret | Ret | ||||||||
Jarno Trulli | Ret | 4 | 15 | 6 | 12 | Ret | Ret | 6 | 6 | Ret | 9 | 7 | Ret | Ret | Ret | 13 | 12 | ||||||||
2001 | EJ11 | Honda RA001E 3.0 V10 | B | AUS | MAL | BRA | SMR | ESP | AUT | MON | CAN | EUR | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | USA | JPN | 19 | 5 | |||
Heinz-Harald Frentzen | 5 | 4 | 11 | 6 | Ret | Ret | Ret | PO | Ret | 8 | 7 | ||||||||||||||
Ricardo Zonta | 7 | Ret | |||||||||||||||||||||||
Jean Alesi | 10 | 6 | 8 | 7 | Ret | ||||||||||||||||||||
Jarno Trulli | Ret | 8 | 5 | 5 | 4 | DSQ | Ret | 11 | Ret | 5 | Ret | Ret | Ret | Ret | Ret | 4 | 8 | ||||||||
2002 | EJ12 | Honda RA002E 3.0 V10 | B | AUS | MAL | BRA | SMR | ESP | AUT | MON | CAN | EUR | GBR | FRA | GER | HUN | BEL | ITA | USA | JPN | 9 | 6 | |||
Giancarlo Fisichella | Ret | 13 | Ret | Ret | Ret | 5 | 5 | 5 | Ret | 7 | DNQ | Ret | 6 | Ret | 8 | 7 | Ret | ||||||||
Takuma Sato | Ret | 9 | 9 | Ret | Ret | Ret | Ret | 10 | 16 | Ret | Ret | 8 | 10 | 11 | 12 | 11 | 5 | ||||||||
2003 | EJ13 | Ford RS1 3.0 V10 | B | AUS | MAL | BRA | SMR | ESP | AUT | MON | CAN | EUR | FRA | GBR | GER | HUN | ITA | USA | JPN | 13 | 9 | ||||
Giancarlo Fisichella | 12 | Ret | 1 | 15 | Ret | Ret | 10 | Ret | 12 | Ret | Ret | 13 | Ret | 10 | 7 | Ret | |||||||||
Ralph Firman | Ret | 10 | Ret | Ret | 8 | 11 | 12 | Ret | 11 | 15 | 13 | Ret | Ret | 14 | |||||||||||
Zsolt Baumgartner | Ret | 11 | |||||||||||||||||||||||
2004 | EJ14 | Ford RS2 3.0 V10 | B | AUS | MAL | BHR | SMR | ESP | MON | EUR | CAN | USA | FRA | GBR | GER | HUN | BEL | ITA | CHN | JPN | BRA | 5 | 9 | ||
Nick Heidfeld | Ret | Ret | 15 | Ret | Ret | 7 | 10 | 8 | Ret | 16 | 15 | Ret | 12 | 11 | 14 | 13 | 13 | Ret | |||||||
Giorgio Pantano | 14 | 13 | 16 | Ret | Ret | Ret | 13 | Ret | 17 | Ret | 15 | Ret | Ret | Ret | |||||||||||
Timo Glock | 7 | 15 | 15 | 15 | |||||||||||||||||||||
2005 | EJ15(EJ15B) | Toyota RVX-05 3.0 V10 | B | AUS | MAL | BHR | SMR | ESP | MON | EUR | CAN | USA | FRA | GBR | GER | HUN | TUR | ITA | BEL | BRA | JPN | CHN | 12 | 9 | |
Tiago Monteiro | 16 | 12 | 10 | 13 | 12 | 13 | 15 | 10 | 3 | 13 | 17 | 17 | 13 | 15 | 17 | 8 | Ret | 13 | 11 | ||||||
Narain Karthikeyan | 15 | 11 | Ret | 12 | 13 | Ret | 16 | Ret | 4 | 15 | Ret | 16 | 12 | 14 | 20 | 11 | 15 | 15 | Ret |
Chú thích cho bảng điểm trên:
Chú thích | |
---|---|
Màu | Ý nghĩa |
Vàng | Chiến thắng |
Bạc | Hạng 2 |
Đồng | Hạng 3 |
Xanh lá | Các vị trí ghi điểm khác |
Xanh dương | Được xếp hạng |
Không xếp hạng, có hoàn thành (NC) | |
Tím | Không xếp hạng, bỏ cuộc (Ret) |
Đỏ | Không phân hạng (DNQ) |
Đen | Bị loại khỏi kết quả (DSQ) |
Trắng | Không xuất phát (DNS) |
Chặng đua bị hủy (C) | |
Không đua thử (DNP) | |
Loại trừ (EX) | |
Không đến (DNA) | |
Rút lui (WD) | |
Không tham gia (ô trống) | |
Ghi chú | Ý nghĩa |
P | Giành vị trí pole |
Số mũ cao |
Vị trí giành điểm tại chặng đua nước rút |
F | Vòng đua nhanh nhất |