Lý Vân Địch

Lý Vân Địch
李云迪
Lý Vân Địch tại Thẩm Quyến năm 2019
Sinh7 tháng 10, 1982 (42 tuổi)
Trùng Khánh, Trung Quốc
Học vịTrường nghệ thuật Thẩm Quyến
Nhạc viện Hannover
Nghề nghiệpNghệ sĩ dương cầm
Nổi tiếng vì1 Huy chương Vàng
Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ XIV (2000)
Cha mẹLý Xuyên (李川), Trương Tiểu Lỗ (张小鲁)
Websiteyundimusic.com

Lý Vân Địch (giản thể: 李云迪; phồn thể: 李雲迪; bính âm: Lǐ Yúndí, sinh ngày 7 tháng 10 năm 1982 tại Trùng Khánh) là nghệ sĩ dương cầm người Trung Quốc. Ở tuổi 18, Lý chính là thí sinh trẻ tuổi nhất từng giành chức quán quân tại Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin[1]. Anh cũng là giám khảo trẻ nhất của cuộc thi này ở tuổi 33 vào năm 2015[2].

Sinh ra trong một gia đình công nhân, tuy nhiên Lý Vân Địch từ nhỏ đã bộc lộ tài năng âm nhạc thiên bẩm[3]. Sau khi được nghe đàn phong cầm trong một lần đi chợ[4], cậu đã chơi thành thạo nhạc cụ này khi mới 4 tuổi và ngay lập tức giành giải nhất Cuộc thi đàn phong cầm thiếu nhi của thành phố Trùng Khánh[5]. Lý bắt đầu được đào tạo dương cầm khi lên 7 tuổi. Một trong những người thầy đầu tiên của cậu là Đán Chiêu Nghĩa (Dan Zhaoyi), một bậc thầy của dương cầm cổ điển Trung Quốc[6].

Năm 1994, cậu giành giải nhất cuộc thi dương cầm thiếu nhi tại Bắc Kinh[5], và 1 năm sau cậu chiến thắng Cuộc thi âm nhạc thiếu nhi Stravinsky. Năm 1996, cậu chiến thắng Trình độ 3 tại cuộc thi âm nhạc Hồng Kông. Sau đó, Lý bắt đầu tham gia thi đấu tại nước ngoài, và giành giải nhất tại Cuộc thi âm nhạc thiếu niên quốc tế Nam Missouri 1998.

Năm 1999, Lý về thứ ba tại Cuộc thi piano quốc tế Franz Liszt tại Utrecht, và giành chức quán quân tại Cuộc thi piano quốc tế Trung Quốc và Cuộc thi piano quốc tế Gina Bachauer[3]. Tháng 10 năm 2000, anh được Bộ văn hóa Trung Quốc cử đi tham gia Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ 14 ngay tại thủ đô Warsaw quê hương của Frédéric Chopin. Anh trở thành người đầu tiên giành giải nhất của cuộc thi này sau 15 năm kể từ Stanislav Bunin[5]. Sau đó, Lý theo học Arie Vardi và định cư tại thành phố Hannover, Đức[5]. Tháng 5 năm 2010, anh được trao Huân chương Bạc cho những cống hiến của mình từ Bộ văn hóa và di sản quốc gia Ba Lan[7].

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 14th international Frederick Chopin Piano Competition Vol.1 Vol.2 (2000)
  • Yundi Li: Chopin (2002)
  • Yundi Li: Liszt (2003)
  • Yundi Li: Chopin Scherzi & Impromptus (2004)
  • Yundi Li: Vienna Recital (2005)
  • Yundi Li: Chopin Liszt Piano Concertos No.1 (2007)
  • Yundi Li: Sergei Prokofiev Piano Concertos No.2 & Ravel Piano Concertos In G Major (2008)
  • YUNDI: Chopin: Nocturnes (2010)
  • YUNDI: Live In Beijing (2010)
  • YUNDI: Red Piano (2011)
  • YUNDI: Beethoven (2013)
  • The art of Yundi (2013)
  • YUNDI: Emperor Fantasy (2014)
  • YUNDI: Chopin Preludes (2015)
  • YUNDI: Chopin Ballades Berceuse Mazurkas (2016)
  • Yundi Li: Live in Concert (2005)
  • The Young Romantic: A Portrait of Yundi (2008)
  • YUNDI: Live In Beijing (2010)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Yundi Li's Passion for Chopin”. NPR. ngày 10 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2020.
  2. ^ 'Chinese Chopin' Li Yundi advices young musicians”. China Daily. ngày 8 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2020.
  3. ^ a b Chan, Vivien Pik-Kwan (ngày 21 tháng 10 năm 2000). “Shenzhen pianist shows forte”. South China Morning Post. Hong Kong. tr. 5.
  4. ^ Bargreen, Melinda (ngày 10 tháng 4 năm 2005). “Piano prodigy loves what he is doing, as his brilliance attests”. Seattle Times. tr. J1.
  5. ^ a b c d Kishinami, Yukiko (ngày 3 tháng 5 năm 2001). “Piano prodigy restores luster to Chopin competition”. Daily Yomiuri. tr. 1.
  6. ^ Eatock, Colin (ngày 13 tháng 2 năm 2008). “Pianist as pop star. Is Yundi Li better than Lang Lang? He says he doesn't care”. Globe and Mail. Canada. tr. R1. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2016.
  7. ^ "Yundi Li", Chopin International Piano Competition

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan