Một phần của loạt bài về |
Lịch sử Philippines |
---|
Tiền sử (trước 900) |
Người Tabon |
Sự độ bổ của người Negrito |
Sự bành trướng của các tộc người Nam Đảo |
Tranh khắc đá Angono |
Sơ sử (900–1521) |
Vương quốc Tondo |
Vương quốc Maynila |
Vương quốc Namayan |
Vương quốc Butuan |
Kalantiao |
Hồi quốc Maguindanao |
Hồi quốc Sulu |
Thuộc địa (1565–1946) |
Đông Ấn Tây Ban Nha (1565–1898) |
Manila thuộc Anh |
Cộng hòa Zamboanga (1899–1903) |
Đệ nhất Cộng hòa |
Chính phủ quân sự Hoa Kỳ (1898–1902) |
Chính phủ Đảo (1901–35) |
Thịnh vượng chung (1935–46) |
Đệ nhị Cộng hòa (1943–45) |
Đương đại (1946–nay) |
Đệ tam Cộng hòa (1946–65) |
Chế độ độc tài Marcos (1965–86) |
Đệ ngũ Cộng hòa (1986–nay) |
Lịch sử Philippines khác biệt nhiều mặt so với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, là nước duy nhất không bị ảnh hưởng bởi Phật giáo và Ấn giáo[cần dẫn nguồn], Philippines ngày nay là quốc gia có đa số dân cư theo Công giáo. Trước thời thuộc địa ở Đông Nam Á, tại Philippines không có sự hình thành một nhà nước, không có những hệ tư tưởng ăn sâu vào xã hội hoặc các truyền thống lớn dẫn tới một hậu quả đáng kể là người dân Philippines đương thời thiếu một lịch sử cụ thể về thời kỳ tiền thuộc địa để từ đó họ có thể lấy cảm hứng và tạo ra những thần thoại dân tộc, chỉ có những mô thức về chủ nghĩa địa phương dưới sự kiểm soát của các đại gia đình kinh doanh bản xứ và mạng lưới họ hàng thân tộc.
Các nhà nghiên cứu cho rằng những người đầu tiên đến Philippines ít nhất cách đây 30.000 năm bởi một cây cầu đất tự nhiên kết nối quần đảo Philippines với lục địa châu Á. Các phát hiện khảo cổ cho thấy người Negritos định cư tại các đảo hơn 5.000 năm trước và sau đó có thêm người Nam Đảo từ Đài Loan đến.
Người ta biết rất ít về cơ cấu chính trị, xã hội và kinh tế của các đảo mà hiện nay là đất nước Philippines trước khi người Tây Ban Nha đến đây vào giữa thế kỷ 16. Các đảo này có dân cư thưa thớt, với tổ chức chính trị lấy cơ sở là làng và họ hàng thân thuộc. Mạng lưới mậu dịch được tổ chức tốt giữa các đảo và liên kết các đảo với mạng lưới rộng lớn hơn trong khu vực Đông Nam Á và đến tận Trung Hoa và Ấn Độ.
Trước thế kỷ 10 SCN, tại Philippines đã có nhiều cộng đồng biển ở các đảo trên toàn bộ quần đảo Philippines. Khu vực này đã được điểm xuyết bởi nhiều "barangay" bán tự trị (có thể hiểu là các làng thành bang). Các tổ chức xã hội và chính trị của người dân trong những hòn đảo rải rác phát triển thành một mô hình chung. Đơn vị cộng đồng cơ bản "barangay" là một nhóm quan hệ họ hàng do một "datu" đứng đầu. Xã hội bao gồm các nhà quý tộc, trong đó có "datu", người tự do, và một nhóm được mô tả bởi người Tây Ban Nha khi họ đến là người phụ thuộc. Người phụ thuộc bao gồm: người lao động nông nghiệp không có đất, những người đã mất đi tình trạng tự do vì nợ hay hình phạt cho tội phạm và nô lệ, hầu hết trong số đó dường như đã bị bắt giữ bởi chiến tranh.
Đạo Hồi là tôn giáo đầu tiên tác động vào cơ sở tín ngưỡng dân gian của người dân Philippines ở các đảo nhỏ phía nam, nơi tiếp giáp gần với vương quốc Hồi giáo Brunei được hình thành từ thế kỷ 15. Từ Brunei, đạo Hồi lan truyền lên đảo Sulu và hình thành nên Nhà nước Hồi giáo Sulu ở thế kỷ 15, từ đây đạo Hồi từng bước lan lên các đảo Mindanao thậm chí đến cả đảo Luzon. Tuy nhiên sự đặt chân đến Philippines của người Tây Ban Nha ở cuối thế kỷ 15, đã ngăn chặn ảnh hưởng của Hồi giáo lan khắp các đảo.
Trong triều Vijaya Sri (683 - 1377) đế quốc Majapahit (1293 - 1528), nhiều người nhập cư và thương nhân từ Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai đến định cư ở Philippines.
Trong khoảng năm 900, hoàng gia của Tondo, nguồn gốc Ấn Độ đến định cư tại Vịnh Manila và đã xây dựng thương mại rất tích cực với các thương gia Trung Quốc ở các vùng biển của khu vực. Thương mại này sau đó đã được biến thành một tuyến đường buôn lậu, sau khi hạn chế thương mại nước ngoài tại Trung Quốc. Sự đóng góp quan trọng nhất của truyền thống Ấn Độ là ngôn ngữ tiếng Phạn, mà để lại dấu ấn trong các ngôn ngữ địa phương, đặc biệt là trong các câu chuyện sử thi.
Thời gian đầu tiên tiếp xúc trực tiếp của Trung Quốc với Philippines là năm 982. Vào thời điểm đó, thương nhân từ "Ma-i" (bây giờ là Mindoro) đưa sản phẩm của mình đến Quảng Châu. Điều này đã được ghi nhận bởi quan chép sử Sung Shih (nhà Tống). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu mới hơn cho rằng thực tế thương mại giữa Trung Quốc và các quốc gia nguyên thủy Philippines có thể bắt đầu sớm hơn nhiều.
Thời triều đại nhà Nguyên (1271 - 1368) và triều đại nhà Minh (1368 - 1662), thương mại phát triển mạnh mẽ giữa Philippines và Trung Quốc, dẫn đến việc thành lập một số khu định cư Trung Quốc ở trong nước. Ảnh hưởng của Trung Quốc có thể được nhìn thấy trong việc sử dụng đồ sứ và kim loại khác nhau như chì, bạc và thiếc. Ngoài việc giới thiệu rèn cày sắt, sản xuất pháo hoa và thuốc súng là do ảnh hưởng của Trung Quốc, cộng với một số tín ngưỡng và phong tục Trung Quốc được bảo tồn tới hôm nay.
Năm 1380, Makhdum Karim, nhà truyền giáo đạo Hồi đã đưa tôn giáo này tới quần đảo Philippines. Lần truyền bá sau của người Ả Rập, Mã Lai và Java truyền giáo đã giúp củng cố đức tin Hồi giáo của người Philippines, tuy vậy hầu hết trong số đó (trừ trường hợp ở miền Nam) sau này trở thành tín đồ Kitô giáo dưới chế độ thực dân Tây Ban Nha. Vương quốc Hồi giáo Sulu -vương quốc Hồi giáo lớn nhất trong quần đảo, bao phủ phần của Malaysia và Philippines. Nhà hoàng gia của Vương quốc Hồi giáo này tuyên bố gốc từ Tiên Tri Muhammad.
Khoảng 1405, thương nhân Sufi truyền bá Hồi giáo tới nửa phía nam của đảo Luzon và các đảo phía nam gần nó. Trong thời gian này, Nhật Bản thành lập một trạm buôn bán tại Aparri và duy trì một sự thống trị lỏng lẻo ở phía Bắc đảo Luzon.
Khoảng năm 1500 sau công nguyên, vương quốc Brunei tấn công vương quốc của Tondo và thành lập một thành phố mà ông đã đặt tên Selurong Malay (mà sau này sẽ trở thành thành phố Manila)[1] trên bờ đối diện của sông Pasig. Các Rajahs (vua) truyền thống của Tondo, lod Lakandula, giữ lại danh hiệu của họ và tài sản của họ, nhưng không còn là quyền lực chính trị, mà thông qua nhà Soliman, các Rajahs Manila.[2]
Ngay trong thế kỷ thứ 13, đạo Hồi và một số các tổ chức chính trị Hồi giáo đã được thành lập trong khu vực của quần đảo Philippines. Hồi giáo đã đạt được một số phát triển quan trọng với sự thành lập của Vương quốc Hồi giáo Sulu vào đầu thế kỷ 15 và ảnh hưởng vẫn có thể được nhìn thấy ngày hôm nay tại một số nơi trên đảo Mindanao.
Nhật Bản cũng để lại dấu ấn của mình ở Philippines tiền thuộc địa, họ truyền bá một số loại vũ khí và công cụ, cũng như vịt thuần hóa và cá nuôi sinh sản, phương pháp mà thực dân Tây Ban Nha được coi là cực kỳ tiên tiến và thậm chí trình độ cao hơn so với châu Âu.
Nguồn chính cho giai đoạn này trong lịch sử Philippines là thưa thớt, điều này giải thích lý do tại sao rất ít được biết đến. Tuy nhiên đó là, mặc nhiên công nhận rằng trong hơn 300 năm của thực dân Tây Ban Nha, chính quyền Tây Ban Nha ở Philippines đã xóa thành công thông qua đốt hoặc chôn lấp biên bản và tài liệu khác mà có thể thiết lập bằng chứng về quản lý trên nhiều các vương quốc nhỏ hiện nay và vương quốc Hồi giáo họ chinh phục. Điều này được chứng minh bằng bản đồng công nhận Công nhận Laguna viết trên tấm kim loại đồng. Dòng chữ viết bằng văn tự Kawi thể hiện sự tồn tại của một hệ thống chữ viết phát triển và cơ cấu của chính phủ trước sự xuất hiện của người Tây Ban Nha và thành lập tiếp theo của các thuộc địa Tây Ban Nha.
Nhà thám hiểm người Tây Ban Nha - Magellan chỉ huy một đoàn thám hiểm đặt chân đến Philippines vào đầu thế kỷ 16, ông đã bị giết chết tại đây trong cuộc giao tranh với một bộ tộc bản xứ. Các đoàn thám hiểm kế tiếp của Tây Ban Nha xuất phát từ México - một thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ được phái đến tây Thái Bình Dương, mãi đến năm 1564 các nhà cầm quyền của Mehico mới quyết định xâm chiếm các đảo Philippines. Có hai động cơ thúc đẩy người Tây Ban Nha đến đây: một là quyết định muốn truyền giáo và hai là khả năng mở các cảng buôn bán mới và mở rộng thương mại sang châu Á.
Nơi định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha là đảo Cebu ở miền nam Philippines vào năm 1565, năm 1571 tổng hành dinh của Tây Ban Nha được chuyển về Manila, nơi sau nay là một trung tâm xuất nhập khẩu thu mua và phân phối hàng hoá do các thương gia người Hoa thống trị. Từ đây, bắt đầu hơn 300 năm ảnh hưởng của Tây Ban Nha ở Philippines, các đảo được đặt tên của thái tử Felipe của Tây Ban Nha và nhanh chóng trở thành tên Philippines.
Toàn quyền Tây Ban Nha ở Philippines:
Anh chiếm đóng: 1761_1763
Chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha
Toàn quyền Mỹ ở Philippines:
Cao ủy Nhật:
Các cuộc cách mạng Philippines (1896-1898), là giai đoạn cuối cùng của phong trào giải phóng dân tộc Philippin chống thực dân Tây Ban Nha nhưng là khởi nguồn cho phong trào chống đế quốc Mỹ, kẻ hất cẳng Tây Ban Nha để nô dịch Philippines.
Cách mạng Philippines bắt đầu vào tháng 8 năm 1896, khi phát hiện tổ chức chống thực dân bí mật Katipunan bởi các nhà chức trách Tây Ban Nha. Các Katipunan, do Andrés Bonifacio lãnh đạo, là một phong trào lan rộng khắp nhiều các hòn đảo Philippines, mục tiêu là giành độc lập thông qua một cuộc nổi dậy vũ trang. Trong một cuộc tập hợp quần chúng ở Caloocan, các nhà lãnh đạo tổ chức thành một chính quyền cách mạng và công khai tuyên bố một cuộc cách mạng vũ trang trên toàn quốc.[3] Bonifacio kêu gọi một cuộc tấn công phối hợp đồng thời vào thủ đô Manila. Cuộc tấn công này đã thất bại, nhưng các tỉnh lân cận cũng nổi dậy. Đặc biệt, quân nổi dậy ở Cavite do Emilio Aguinaldo giành chiến thắng. Một cuộc đấu tranh quyền lực giữa những người cách mạng dẫn đến Bonifacio mất quyền năm 1897, với sự chuyển sang Aguinaldo người đứng đầu chính quyền cách mạng mới của mình. Năm đó, một thỏa thuận ngừng bắn với người Tây Ban Nha đã đạt được gọi là Hiệp ước Biak-na-Bato, Aguinaldo bị lưu đày đến Hồng Kông. Xung đột, mặc dù giảm, không bao giờ thực sự chấm dứt.
Ngày 21 tháng 4 năm 1898, Hoa Kỳ bắt đầu một cuộc phong tỏa hải quân Cuba, hành động quân sự đầu tiên của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Hải quân Mỹ do Commodore George Dewey chỉ huy quyết đánh bại hải quân Tây Ban Nha trong trận vịnh Manila, thu giữ quyền kiểm soát Manila có hiệu quả. Ngày 19 tháng 5, Aguinaldo, không chính thức liên minh với Mỹ, trở lại Philippines và tiếp tục chiến đấu chống lại người Tây Ban Nha. Vào tháng 6, các chiến sĩ đã giành được quyền kiểm soát gần như toàn bộ Philippines với sự ngoại lệ của Manila. Vào ngày 12, Aguinaldo ban hành các Tuyên bố Philippines Độc lập và Đệ Nhất Cộng hòa Philippines được thành lập.
Thực dân Tây Ban Nha chính thức kết thúc thống trị với Hiệp ước Paris năm 1898, hiệp ước kết thúc cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Tây Ban Nha nhượng lại Philippines và vùng lãnh thổ khác cho Mỹ. Manila bị các lực lượng Mỹ kiểm soát.
Ngày 4 tháng 2 năm 1899, trận Manila đã nổ ra giữa các lực lượng Philippines và Mỹ, bắt đầu chiến tranh Philippines-Mỹ. Aguinaldo nói: "hòa bình và quan hệ thân thiện với Mỹ bị phá vỡ và sau này sẽ là kẻ thù". Tháng 6 năm 1899, Đệ Nhất Cộng hòa Philippines ra đời chính thức tuyên chiến với Mỹ.[4]
Lịch sử các nước Đông Nam Á | |||
Brunei | Campuchia | Đông Timor | Indonesia | Lào | Malaysia | Myanmar | Philippines | Singapore | Thái Lan | Việt Nam |