Marder II | |
---|---|
![]() Marder II (Sd. Kfz. 131) (Quân Đồng minh đặt cho biệt danh là "Kẻ trộm than"("coal thief") | |
Loại | Pháo tự hành diệt tăng |
Nơi chế tạo | ![]() |
Thông số | |
Khối lượng | 10.8 tấn (23,809 lb) |
Chiều dài | 6.36 m (21 ft) |
Chiều rộng | 2.28 m (7 ft 6 in) |
Chiều cao | 2.2 m (7.21 ft) |
Kíp chiến đấu | 3 |
Phương tiện bọc thép | 5-35 mm (.19 -1.37 in) |
Vũ khí chính | 1x 7.5 cm Pak 40 37 viên |
Vũ khí phụ | 7.92 mm MG34 600 viên |
Động cơ | Maybach HL 62 TRM 140 hp |
Công suất/trọng lượng | 12.96 hp/tấn |
Hệ thống treo | Thanh xoắn |
Tầm hoạt động | 190 km (118 mi) |
Tốc độ | 40 km/h (25 mph) |
Marder II là tên một loại pháo tự hành diệt tăng phục vụ cho lực lượng Đức Quốc xã trong thế chiến II. Nó được lắp ráp dựa trên khung tăng Panzer II và trang bị pháo chính 7.5 cm PaK 40.
Trong cuộc hành quân Barbarossa, lực lượng thiết giáp Đức đã thực sự bất ngờ trước hai dòng tăng mới của Liên Xô là T-34 và KV. Mặc dù Wehrmacht đã đánh chiếm và tiêu diệt nhiều cụm quân Liên Xô cũng như thành công trong chiến dịch đánh nhanh thắng nhanh, bao vây và chia cắt kẻ thù, nhưng quân Đức vẫn thiếu các loại pháo tự hành chống tăng như Panzerjäger I để có thể tăng thêm tính hiệu quả cho chiến dịch.
Dự án Marder được thành lập nhằm thiết kế một dòng pháo tự hành chống tăng mới. Nhiều mẫu khung đã được chọn lựa, trong đó có cả khung Panzer-II, Panzer-III, Lorraine Schlepper. Cuối cùng mẫu Panzer-II được chọn làm khung cho Marder II. Khung Panzer-II tạo cho Marder II thêm chỗ trống để chứa đạn và lắp pháo. Marder II được trang bị pháo 7.5 cm PaK 40 hoặc một loại pháo mới được chế lại từ pháo 7.62 cm F-22 mẫu 1936 của Hồng Quân. OKH đã chỉ thị sản xuất một số lượng lớn hai loại pháo trên trước năm 1941, nhằm có đủ cung cấp cho chiến dịch xâm lược Liên Xô.
Việc sản xuất Marder II được chia làm hai giai đoạn:
Toàn bộ số Marder II được huy động tham gia toàn bộ các trận chiến ở cả hai mặt trận, nhưng chủ yếu là hoạt động ở mặt trận phía Đông.
Marder II được phân vào các sư đoàn Panzerjäger Abteilungen, SS và thậm chí cả hoạt động cho cả Luftwaffe.
Điểm yếu nhất của Marder II chính là lớp giáp bọc quá mỏng, phần tháp pháo quá thấp khiến cho bộ binh dễ dàng tấn công bằng lựu đạn hoặc súng bắn tỉa bình thường. Ngoài ra, động cơ yếu làm cho Marder II di chuyển không nhanh lắm và dễ trở thành mục tiêu cho lực lượng thiết giáp đối phương.
Marder II không thể hoạt động trong thành phố vì có khá nhiều điểm yếu khiến cho bộ binh dễ dàng tiếp cận và tiêu diệt. Tuy nhiên nếu như biết cách sử dụng Marder II với vai trò các ụ pháo tự hành thì sức sát thương của nó sẽ rất lớn. Trong thực tế, quân Đức không bao giờ sử dụng Marder II trong vùng nội thành (urban) mà chỉ toàn sử dụng nó tại các pháo đài, ụ pháo canh phòng,...