Núi Gongga

Núi Gongga
Sườn tây bắc Minya Konka
Độ cao7.556 m (24.790 ft)
Đỉnh núi cao thứ 41 trên thế giới
Phần lồi3.642 m (11.949 ft)
hạng 47
Danh sáchUltra
Vị trí
Núi Gongga trên bản đồ Tứ Xuyên
Núi Gongga
Núi Gongga
Vị trí ở Tứ Xuyên
Vị tríGarzê, Tứ Xuyên, Trung Quốc
Dãy núiDãy Đại Tuyết Sơn (大雪山)
Tọa độ29°35′45″B 101°52′45″Đ / 29,59583°B 101,87917°Đ / 29.59583; 101.87917
Leo núi
Chinh phục lần đầu28 tháng 10 năm 1932 by Terris Moore, Richard Burdsall
Hành trình dễ nhấtSườn tây bắc
Gongga nhìn từ phía tây.
Phép chiếu Orthographic tập trung vào núi Gongga

Núi Gongga (giản thể: 贡嘎山; phồn thể: 貢嘎山; bính âm: Gònggá Shān), còn được gọi là Minya Konka (bính âm tiếng Tạng Kham: Mi'nyâg Gong'ga Riwo), là ngọn núi cao nhất ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Nó cũng được biết đến với người dân địa phương như là "Vua của dãy núi Tứ Xuyên".

Nằm trong Dãy Đại Tuyết Sơn, giữa sông Đại Độsông Nhã Lung, một phần của Dãy núi Hoành Đoạn, núi Gongga với đỉnh cao 7.000 mét (23.000 ft) nằm ở cực đông thế giới và là đỉnh cao thứ ba bên ngoài Himalaya / Karakoram, sau Tirich MirKongur Tagh.

Đỉnh có địa hình thẳng đứng rộng trên các hẻm núi sâu gần đó.

Lịch sử leo núi

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1930 ([1] cho là năm 1929) nhà thám hiểm Joseph Rock, cố gắng đo chiều cao của nó, đo sai chiều cao của nó là 30.250 ft (9.220 m) và điện cho National Geographic Society công bố Minya Konka là đỉnh núi cao nhất trên thế giới. Đo lường này đã được xem xét với sự nghi ngờ ngay từ đầu, và quyết định của Hội để kiểm tra tính toán của Rock trước khi xuất bản là có cơ sở. Sau khi thảo luận với Hiệp hội, Rock đã giảm độ cao xuống 7.803 m (25.600 ft) trong ấn bản chính thức của mình. Năm 1930, nhà địa lý Thụy Sĩ Eduard Imhof đã đo được 7.590 m (24.900 ft).[2]

Một đoàn leo núi Mỹ thứ hai được trang bị tốt hơn trở lại vào năm 1932, đã làm một cuộc khảo sát chính xác về đỉnh cao và các vùng lân cận của nó. Về độ cao đỉnh điểm họ đã đồng ý với con số của Imhof là 7.590 m. Hai thành viên (Terris Moore, và Richard Burdsall) của đoàn thám hiểm nhỏ này (chỉ có bốn thành viên leo núi, bao gồm Arthur B. Emmons và Jack T. Young) đã leo tới đỉnh. Họ bắt đầu ở phía tây của ngọn núi và leo lên vùng sườn Tây Bắc.

Đây là một thành tựu đáng chú ý vào thời điểm đó, xem xét chiều cao của núi, khoảng cách xa, và kích thước nhỏ của nhóm. Thêm vào đó, đỉnh cao này là đỉnh cao nhất của người Mỹ đến năm 1958 (mặc dù người Mỹ vào thời gian đó leo lên các điểm không phải là đỉnh cao hơn). Cuốn sách do các thành viên đoàn thám hiểm viết, "Những người đàn ông chống lại các đám mây" [3] vẫn là một cuốn sách cổ điển leo núi.

Chỉ số Himalayan [4] liệt kê thêm 5 cuộc leo núi lên Gongga, và bảy nỗ lực không thành công. Một số người chết đã chết khi lên đó, nơi nổi tiếng là một ngọn núi khó khăn và nguy hiểm. Năm 1981, tám nhà leo núi người Nhật đã chết vì ngã[5] trong một nỗ lực không thành công [6]. Cho đến năm 1999, số người cố gắng leo lên ngọn núi chết hơn so với số người đạt đến đỉnh cao.[7]

SummitPost[5] tường thuật rằng, cho đến năm 2003, ngọn núi được chinh phục chỉ có tám lần. Tổng số 22 nhà leo núi đã lên đến đỉnh điểm, trong khi đó 16 nhà leo núi qua đời.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Arnold Heim: The Glaciation and Solifluction of Minya Gongkar. The Geographical Journal. Vol. 87, No. 5 (May, 1936), pp. 444-450. Published by: The Royal Geographical Society (with the Institute of British Geographers)
  2. ^ “Expedition zum Minya Konka in Chinesisch Tibet 1930”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2017.
  3. ^ R. Burdsall, T. Moore, A. Emmons, and J. Young, Men Against The Clouds (revised edition), The Mountaineers, 1980.
  4. ^ “Himalayan Index”. The Alpine Club. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2007.
  5. ^ a b SummitPost Minya Konka (Gongga Shan)
  6. ^ Searchers find body missing for 26 years, AAP, Jun 12 2007 Lưu trữ 2011-06-05 tại Wayback Machine
  7. ^ Macfarlane, Robert (ngày 15 tháng 10 năm 2012). “Ice, from The Old Ways: A Journey on Foot. Design Observer. Observer Omnimedia LLC. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2012.
  • Jill Neate, High Asia: An Illustrated History of the 7000 Metre Peaks, ISBN 0-89886-238-8

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Michael Brandtner: Minya Konka Schneeberge im Osten Tibets. Die Entdeckung eines Alpin-Paradieses. Detjen-Verlag, Hamburg 2006, ISBN 3-937597-20-4
  • Arnold Heim: Minya Gongkar. Verlag Hans Huber, Bern–Berlin 1933
  • Eduard Imhof: Die großen kalten Berge von Szetschuan. Orell Füssli Verlag, Zürich 1974

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Zhihu] Điều gì khiến bạn từ bỏ một mối quan hệ
[Zhihu] Điều gì khiến bạn từ bỏ một mối quan hệ
Khi nào ta nên từ bỏ một mối quan hệ
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Ngay từ khi bắt đầu Tensura, hẳn chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh Shizu và chiếc mặt nạ, thứ mà sau này được cô để lại cho Rimuru
Tổng quan về EP trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Tổng quan về EP trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
EP có nghĩa là Giá Trị Tồn Tại (存在値), lưu ý rằng EP không phải là ENERGY POINT như nhiều người lầm tưởng
Lòng lợn – món ăn dân dã liệu có còn được dân yêu?
Lòng lợn – món ăn dân dã liệu có còn được dân yêu?
Từ châu Âu đến châu Á, mỗi quốc gia lại có cách biến tấu riêng với nội tạng động vật, tạo nên một bản sắc ẩm thực đặc trưng