Năm ngón tay của Tây Tạng | |||||||
Tiếng Trung | 西藏的五指 | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Năm ngón tay của Tây Tạng (tiếng Trung: 西藏的五指, Tây Tạng đích ngũ chỉ) là một chính sách đối ngoại của Trung Quốc[1] được đưa ra bởi Mao Trạch Đông coi Tây Tạng là lòng bàn tay phải của Trung Quốc với năm ngón tay là: Ladakh, Nepal, Sikkim, Bhutan và Arunachal Pradesh, và do đó Trung Quốc phải có trách nhiệm "giải phóng" các vùng này.[2][3] Chính sách này chưa bao giờ được thảo luận trong các tuyên bố công khai chính thức của Trung Quốc, nhưng những lo ngại chính trị bên ngoài đã được đưa ra dẫn đến khả năng nhìn nhận sự tồn tại hoặc hồi sinh chính sách này. Một bài báo đăng trên tạp chí cơ quan ngôn luận lâm thời của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác minh sự tồn tại của chính sách này như hệ quả sau cuộc tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ vào năm 2017.
Đế quốc Trung Quốc tuyên bố quyền bá chủ đối với Nepal, Sikkim và Bhutan như một phần mở rộng của tuyên bố chủ quyền đối với Tây Tạng.[4] Những tuyên bố này đã được khẳng định bởi một quan chức nhà Thanh ở Tây Tạng vào năm 1908, người đã viết cho chính quyền Nepal rằng Nepal và Tây Tạng, "đoàn kết như anh em dưới sự bảo trợ của Trung Quốc, nên làm việc hài hòa vì lợi ích chung." Ông đề xuất "sự pha trộn của năm màu sắc" đại diện cho Trung Quốc, Tây Tạng, Nepal, Sikkim và Bhutan như một phần trong chương trình của mình nhằm khẳng định yêu sách của Trung Quốc trước sự phản đối của Anh.[5] Năm 1939, Chủ tịch sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Mao Trạch Đông coi Bhutan và Nepal là các quốc gia chư hầu của Trung Quốc.
Sau khi gây ra những thất bại quân sự cho Trung Quốc, các nước đế quốc đã cưỡng đoạt của chúng ta một số lượng lớn các quốc gia triều cống cho Trung Quốc, cũng như một phần lãnh thổ của chúng ta. Nhật Bản chiếm đoạt Triều Tiên, Đài Loan, quần đảo Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận Khẩu. Anh chiếm Miến Điện, Bhutan, Nepal và Hương Cảng; Pháp chiếm An Nam; ngay cả một đất nước nhỏ bé khốn khổ như Bồ Đào Nha đã chiếm Áo Môn từ chúng ta. Đồng thời khi họ lấy đi một phần lãnh thổ của chúng ta, bọn đế quốc buộc Trung Quốc phải bồi thường rất lớn. Do đó đã giáng những đòn nặng nề vào đế quốc phong kiến rộng lớn của Trung Quốc.[6]
— Mao Trạch Đông
Chính sách "Năm ngón tay của Tây Tạng" đã được cho là phổ biến trong các bài phát biểu của Mao trong những năm 1940,[2][7][8] nhưng chưa bao giờ được thảo luận trong các tuyên bố chính thức của công chúng Trung Quốc.[9] Chính sách này coi Tây Tạng là lòng bàn tay phải của Trung Quốc, với Ladakh, Nepal, Sikkim, Bhutan và Cơ quan Biên giới Đông Bắc (nay được gọi là Arunachal Pradesh) là năm ngón tay của nó. Năm 1954, các sĩ quan quân đội Trung Quốc ở Tây Tạng tuyên bố rằng họ sẽ "giải phóng Sikkim, Bhutan, Ladakh và Cơ quan Biên giới Đông Bắc, những nơi đang bị đế quốc Ấn Độ chiếm đóng một cách sai trái."[10]:55 Cùng năm đó, chính phủ Trung Quốc xuất bản cuốn sách có tên "Lược sử Trung Quốc hiện đại" dùng dạy cho học sinh, sinh viên, trong đó có một bản đồ thể hiện các vùng lãnh thổ bị cho là bị "các thế lực đế quốc" chiếm đoạt từ năm 1840 đến năm 1919, gọi chúng là "các phần lãnh thổ của Trung Quốc phải được đòi lại." Bản đồ này bao gồm Ladakh, Nepal, Bhutan, Sikkim và toàn bộ Đông Bắc Ấn Độ.[9] Điều này cũng được ghi nhận trong hồi ký của nhà ngoại giao Ấn Độ Triloki Nath Kaul, người đang phục vụ tại Bắc Kinh vào thời điểm đó. Học giả BSK Grover nói rằng tấm bản đồ này là một "phản ánh nghiêm túc về tham vọng của Bắc Kinh" chứ không đơn thuần là tuyên truyền hay "khoe khoang vu vơ".
Các tuyên bố về "năm ngón tay" đã được khẳng định "rõ ràng và thường xuyên" từ năm 1958 đến năm 1961 trên các hệ thống phát thanh Bắc Kinh và Lhasa.[10]:96 Trong một cuộc họp quần chúng công khai ở Lhasa vào tháng 7 năm 1959, trung tướng Trung Quốc Trương Quốc Hoa nói: "Người Bhutan, người Sikkim và người Ladakh tạo thành một gia đình thống nhất ở Tây Tạng. Xưa nay họ luôn phụ thuộc Tây Tạng và đất mẹ Trung Hoa vĩ đại. Họ phải một lần nữa được đoàn kết và được giảng dạy học thuyết cộng sản".[9][11][12][a]
Chính sách, vốn chưa bao giờ được thảo luận trong các tuyên bố công khai của Trung Quốc,[9] không còn hoạt động và các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc chỉ tập trung vào bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ và vùng Aksai Chin mà Ấn Độ tuyên bố là một phần của Ladakh do Trung Quốc quản lý, hiện một phần quản lý bởi địa khu Hòa Điền, Tân Cương và một phần nhỏ được quản lý bởi địa khu A Lý, Tây Tạng.[16] Tuy nhiên, đã có những lo ngại được bày tỏ về việc liên quan đến sự hồi sinh của nó.[17] Sau bế tắc biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 2017 tại Doklam, một bài báo đăng trên tờ Quần chúng (tạp chí ngôn luận của thường vụ tỉnh ủy Giang Tô của ĐCSTQ)[18] nhắc lại "năm ngón tay".[19] Bài báo được viết bởi nhà nghiên cứu Đại học Nam Kinh Lưu Lập Đào, cáo buộc sự hỗ trợ bí mật của Ấn Độ đối với phong trào độc lập của Tây Tạng bắt nguồn từ tầm quan trọng về văn hóa và kinh tế của Tây Tạng trong khu vực và mặc dù thực tế là Ấn Độ đã "lấy đi năm ngón tay", họ không thể kiểm soát hoàn toàn khu vực mà không có "lòng bàn tay" vì "lực hướng tâm" của văn hóa Tây Tạng trên "năm ngón tay". Bài báo nói thêm rằng khi các khoản đầu tư, thương mại và quan hệ kinh tế của Trung Quốc với các khu vực này tăng lên, ảnh hưởng của Trung Quốc ở các khu vực này sẽ vượt qua Ấn Độ và sẽ loại bỏ họ ở một mức độ "lớn".
Lobsang Sangay, lãnh đạo của Chính phủ lưu vong Tây Tạng đã liên kết chính sách này với tình trạng bế tắc ở Doklam.[20] Nó cũng đã được trích dẫn là lý do đằng sau những đụng độ giữa Trung Quốc và Ấn Độ năm 2020 bởi Sangay,[21] Adhir Ranjan Chowdhury (lãnh đạo của Đảng Quốc Đại Ấn Độ trong Lok Sabha),[22] Seshadri Chari (cựu trưởng ngoại giao của Đảng Bharatiya Janata),[23] và MM Khajuria (cựu Tổng cục trưởng Cảnh sát của bang Jammu và Kashmir trước đây của Ấn Độ).[24]
Theo nhà bình luận Saurav Jha, chính sách "năm ngón tay" nảy sinh từ yếu tố địa lý lịch sử của dãy Himalaya cho phép tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hai chiều giữa Tây Tạng và các khu vực phía nam Tây Tạng. Điều này dẫn đến căng thẳng giữa các cường quốc đối với Himalaya vốn "cuối cùng được làm dịu đi do sự cân bằng về khả năng quân sự," và điều này cũng là lý do đằng sau chính của sự tranh chấp biên giới Trung-Ấn kéo dài.[25]