Nguyễn Hữu Ngư (20 tháng 4 năm 1921 – 18 tháng 2 năm 1979, có các bút hiệu Nguyễn Ngu Í, Nguiễn Hữu Ngư, Trịnh Nguiên, Tân Fong Hiệb, Phạm Hoàn Mĩ, Trần Hồng Hưng, Lưu Nguiễn, Đ.T.T, Nghê Bá Lý, Ngư Fi Lô Cố[1]) là một nhà giáo, nhà thơ, nhà báo Việt Nam.
Nguyễn Hữu Ngư sinh tại làng Tam Tân (nay là xã Tân Tiến, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận). Cha là Nguyễn Hữu Hoàn, người Hà Tĩnh, một nhà nho trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, bạn của Thái Phiên, Tăng Bạt Hổ. Mẹ là Nghê Thị Mỹ.
Năm 1928, bảy tuổi, Nguyễn Ngu Í phải xa gia đình vào Sài Gòn, học tiểu học ở trường Phú Lâm (Chợ Lớn). Năm 1934-1938, học trường trung học Pétrus Ký. Năm 1941, 20 tuổi, ông đang theo học Trường Sư phạm thì bệnh tâm thần phát xuất lần đầu, phải vào nhà thương Chợ Quán chữa trị. Năm 1942, khỏi bệnh, ông bỏ học và bắt đầu bước chân vào nghề văn, nghề báo.
Sau khi khỏi bệnh, Nguyễn Hữu Ngư cộng tác với Nam Kỳ tuần báo của Hồ Biểu Chánh, rồi tờ Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, tham gia việc thành lập Hội truyền bá quốc ngữ Nam Kỳ.
Tháng 8 năm 1945, giữ chức Tổng thư ký đầu tiên của Ủy ban nhân dân cách mạng xã Tam Tân. Tháng 6 năm 1946, ra Hà Nội làm việc ở Phòng thiếu nhi toàn quốc do Lưu Hữu Phước phụ trách. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, vào công tác ở Quảng Ngãi, thì bệnh cũ tái phát nên ông phải về lại quê nhà. Ở Tam Tân, ông sống bằng nghề dạy học và cưới vợ vào ngày 25 tháng 9 năm 1949. Vợ tên Nguyễn Thị Thoại Dung, giáo viên, thi thoảng có sáng tác, ký bút hiệu Thoại Nguyên. Năm 1950, được tin em gái mất, lại quẫn trí.
Năm 1952, cùng vợ về Sài Gòn, trở lại nghề dạy học và viết báo. Năm 1955, tham gia Mặt trận Thống nhất dân tộc gồm Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, chống lại Ngô Đình Diệm. Ông bị bắt và bị đưa đi cải huấn ở trại Tân Hiệp (Biên Hòa). Được trả tự do, ông đi vận động cho "đường lối thứ ba", cho thuyết "trung lập chế" của Hồ Hữu Tường. Năm 1957, cộng tác với tờ Bách khoa và những tờ báo khác như Mai, Sáng dội miền Nam, Hòa đồng, Nghệ thuật...
Năm 1977, vào Dưỡng trí viện Biên Hòa (nay là Bệnh viện tâm thần Trung ương II). Hai năm sau, vào tháng 2 năm 1979, Nguyễn Ngu Í mất. Hiện nay, hài cốt ông đã được cải táng tại quê nhà.
Vào những năm 1934-1938, khi đi học ông đã sáng tác thơ. Được giáo sư Phạm Thiều khen là có khiếu về văn chương. Đến khi lìa bỏ cõi đời, Nguyễn Hữu Ngư đã để lại một số tác phẩm sau:
Giáo sư Trần Văn Khê là một trong những người bạn của Nguyễn Hữu Ngư, đã viết như sau:
Nhà biên khảo Nguyễn Hiến Lê kể:
Theo nhà văn Sơn Nam thì Nguyễn Hữu Ngư là một nhà văn nổi tiếng yêu nghề và yêu nước, luôn xót xa vì chuyện đất nước chia đôi. Dường như cả một đời dạy học và hoạt động báo chí ở Sài Gòn, Nguyễn Hữu Ngư lúc nào cũng trong trạng thái nửa tĩnh nửa điên[3].
Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc nhận định về thơ của Nguyễn Hữu Ngư (cũng chính là người cậu của mình):
Từ điển văn học (bộ mới) đánh giá: