Nguyễn Thị Ngọc Diễm | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vương phi chúa Trịnh | |||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 1721 làng Linh Đàm, xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, TP Hà Nội | ||||||||||||
Mất | 1784 Thăng Long | ||||||||||||
An táng | chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa | ||||||||||||
Phu quân | Trịnh Doanh | ||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||
| |||||||||||||
Tước hiệu | Hoa Dung Thứ phi | ||||||||||||
Tước vị | Hoa Dung Ân vương phi Vương Thái phi Thánh Từ Thái Tôn Thái Phi Trịnh Quốc mẫu | ||||||||||||
Thân phụ | Nguyễn Luân |
Nguyễn Thị Ngọc Diễm (chữ Hán: 阮氏玉琰, 1721-1784), là thứ phi của chúa Trịnh Doanh, mẹ Trịnh Sâm, bà nội của Trịnh Khải và Trịnh Cán.
Bà có tên húy là Nguyễn Thị Khương, quê ở làng Linh Đường, huyện Thanh Trì, phía Nam kinh thành Thăng Long. Ngôi làng xưa thuộc xã Linh Đàm, sau đổi thành xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, trong gia đình có cha là Nguyễn Luân (1686 - 1739), tên tự là Đình Anh hay Đình Tư.
Nguyễn Đình Tư sinh được 6 người con, 3 trai 3 gái thì con trai đều được phong làm Quận công, con gái đều làm phu nhân đại thần. Cha bà thấy Trịnh Doanh thông minh, chăm học, trầm tĩnh và có chí khí, rất nhiều triển vọng lên ngôi chúa thay cho người anh trai hoang dâm tửu sắc Trịnh Giang, nên đã tiến cung con gái mình. Từ đó bà trở thành Thứ phi của chúa Trịnh Doanh và được ban mỹ hiệu là Hoa Dung.
Với công lao và tài trí, Nguyễn Đình Tư được triều đình phong cho nhiều tước vị cao: Tiền tả tư giảng, Bồi tụng, Thượng thư bộ Công, tước Nam quận công. Ông còn là bạn kết giao với nhiều danh sĩ như Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ; Thượng thư Nguyễn Công Cơ, Thượng thư Nguyễn Công Thái, Hoàng giáp Nguyễn Quý Ân, Đỗ Thế Giai... Tư thất của ông là nơi mọi người thường đến thưởng hoa, ngâm thơ, bình văn xướng họa nên nhà ông được gọi là Nguyễn môn đào lý (vườn đào, tài trí, thơ văn nhà họ Nguyễn).
Khi Trịnh Doanh nối ngôi cha, bà đã dâng kế sách “Ngũ qui” (mọi việc qui vào năm rường mối), Chúa khen hay, lấy làm rường cột cải tổ triều chính. Đi kinh lý, Chúa nhờ bà buông rèm trông coi việc triều. Bà được thỏa chí thi thố tài năng tạo phúc cho trăm họ.
Dù Thứ phi Hoa Dung đã hạ sinh được con trai trưởng là Trịnh Sâm, nhưng khi ấy, chúa Trịnh Doanh đang sủng ái người vợ họ Nguyễn Mậu ở Thanh Hóa và đã phong bà này làm Chính phi; bà Hoa Dung chỉ được phong Trường cung. Chính phi họ Nguyễn chỉ sinh được một con gái là Tiên Dung quận chúa và được chúa Trịnh Doanh hứa gả cho Thái tử Lê Duy Vỹ. Thái tử có chí nhất thống, lật đổ binh quyền nhà chúa, nên bị thế tử Trịnh Sâm ghen ghét.
Một hôm, thái tử và thế tử cùng ở phủ đường được chúa Trịnh Doanh ban cho ăn cơm và bảo cùng ngôi một măm, lúc ấy Chính phi Nguyễn thị can rằng:
Sâm đổi nét mặt, bước ra về, nói với người ngoài rằng
Năm Quý Dậu (1753), Trịnh Sâm chính thức được lập làm Thế tử. Sau khi Trịnh Doanh mất (1767), trong thời gian đầu khi Trịnh Sâm lên nối nghiệp chúa, bà Hoa Dung rất quan tâm giúp đỡ con mình, Trịnh Sâm tôn bà là Vương Thái phi, còn vua Lê Hiển Tông ban Kim sách (sách vàng), một ân huệ đặc biệt cao quý và phong bà làm Quốc Thánh mẫu.
Những năm sau khi bà Chính phi và Chúa Trịnh Doanh lần lượt qua đời, ở đỉnh cao quyền lực, bà Hoa Dung vẫn đau khổ và căm phẫn Chính phi đã mất đến nỗi hận lây cả con rể là Thái tử Duy Vĩ. Khi Trịnh Sâm thực hiện hành động trả thù truy bức Thái tử Lê Duy Vỹ một cách vô cùng dã man thì Thứ phi Hoa Dung đang giúp con điều hành triều chính, đã không có ý kiến gì can ngăn. Sau khi Trịnh Sâm nối ngôi, mượn việc khác mà vu tội, phế truất và sát hại thái tử Duy Vĩ.
Sách Việt sử thông giám cương mục chép lời phê của vua Tự Đức:
Cũng theo Việt sử thông giám cương mục, sau khi Duy Vĩ bị truất, Duy Cận là con thứ tư của nhà vua, ra vào phủ Chúa Trịnh, tôn thờ mẹ Trịnh Sâm rất kính cẩn. Bấy giờ hoàng tử thứ tư Duy Cận có quan hệ thân thiết với Nguyễn Thái phi, nên được chọn lên thay làm thái tử.
Bà có những ảnh hưởng nhất định đến việc cai trị của chúa lúc mới nắm quyền, bấy giờ: chúa Trịnh Sâm hăng hái làm việc, chán thói cẩu thả từ trước, mong có biến thông cổ vũ thực hành chính sự đổi mới [3].
Sử sách đánh giá chính sự thời Trịnh Sâm có nhiều tiến bộ tích cực nhưng về sau, vì ông quá say mê sắc đẹp của Tuyên phi Đặng Thị Huệ mà dần bỏ bê việc nước, rồi cho phế con trưởng lập con thứ, lập con thứ Trịnh Cán làm Thế tử. Nhận thấy nguy cơ của sự bất ổn, bà Hoa Dung đã nhiều lần can ngăn nhưng không được Trịnh Sâm nghe theo, bà chán nản rời phủ chúa về sống ở quê Linh Đường, giúp làng sửa đình, chùa, cày cấy, dệt lụa, làm nhiều việc thiện cho dân.
Cụ thể, khi Trịnh Sâm quá mê mẩn Đặng Thị Huệ, muốn bỏ con lớn, lập con nhỏ, thì bà đã vào cung, nói cho Chúa biết điều hơn lẽ thiệt:
Trịnh Sâm mới tâu với nhà vua lập Trịnh Cán mới 5 tuổi làm thế tử, dùng quận Huy Hoàng Đình Bảo nuôi dạy (1781). Chúa ngã bệnh, ngày càng nguy kịch. Quốc mẫu Hoa Dung hoảng sợ, thường vào cung chăm sóc. Khi Chúa lâm chung, sai thảo cố mệnh đưa Trịnh Cán lên ngôi. Bà đau lòng vì sắp phải vĩnh biệt đứa con độc nhất, nhưng vẫn rất tỉnh táo, bảo đưa chiếu cho xem. Rồi tự tay bà dùng bút son phê: "Không phải bút rồng của tiên vương, không đủ làm bằng”.
Nhưng tình thế không thể đảo ngược. Phe cánh Thị Huệ áp đảo vì Quận Huy nắm binh quyền đã ngả theo, Trịnh Cán đang thoi thóp trên giường bệnh, vẫn lên ngôi chúa. Thị Huệ và Quận Huy cùng nhiếp chính.
Đầu năm 1783, lính kiêu binh phò thái tôn Duy Khiêm, con thái tử Duy Vĩ về cung. Thái phi sợ Duy Cận mất ngôi thái tử, bèn sai hoạn quan là Liêm Tăng đến bắt ép thái tôn sang chầu, để toan bí mật giết đi. Khi thái tôn đang đi thì bị quân tuần sát ngăn lại. Các quân lính phát hiện âm mưu, la hét ầm ĩ, lùng tìm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy Cận đương chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân sĩ đều đập phá tan nát. Duy Cận phải thay đổi quần áo đi lẻn về cung. Nhà chúa biết việc này là do thái phi gây ra, nhân dụ dỗ quân sĩ chớ làm huyên náo, rồi lập tức hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin nhà vua lập Duy Khiêm làm hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công.
Sau này, khi quân Tam phủ mưu lật Trịnh Cán để đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa, đã xin ý chỉ của Quốc mẫu thì bà đã đồng ý ngay và ra lệnh cho Quận Huy công Hoàng Đình Bảo hãy để Trịnh Khải nắm quyền. Khi Quận Huy không chịu nghe theo thì bà đã để mặc cho quân Tam phủ giết; phế Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ. Tất cả các bước như xin chỉ dụ của Quốc mẫu, rồi tâu lên nhà vua phong Khải làm vương đều có ý kiến và bút phê của Quốc mẫu Hoa Dung. Lên ngôi chúa, Trịnh Khải đã tôn phong bà là Thánh Từ Thái Tôn Thái Phi.
Bà lâm bệnh rồi mất vào ngày 28 tháng 7 năm Giáp Thìn (1784), thọ 65 tuổi vào thời điểm khi mà cơ nghiệp nhà chúa sắp tiêu vong trước cơn bão táp của phong trào Tây Sơn. Năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh. Trịnh Khải phải bỏ kinh thành chạy lên phía Bắc, rồi bị bắt và tự sát.
Linh cữu của bà được đưa về an táng tại chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa. Lăng Hoa Dung được xây bằng đá, dân gian trong vùng gọi là lăng bà Quốc mẫu hay lăng bà Trịnh. Việc chủ trì tế lễ khi khánh thành lăng do đại thần, Tiến sĩ Phan Huy Áng làm chủ tế; còn việc phụ trách, điều hành việc xây dựng lăng do con trai ông là quan Đốc đồng Thanh Hóa, Tiến sĩ Phan Huy Ích đảm nhiệm.
Khu lăng mộ Thứ phi Hoa Dung được hoàn thành vào tháng 11 năm Giáp Thìn (1784). Trong tác phẩm Dụ Am thi văn tập của mình, Phan Huy Ích có bài thơ lại ghi việc làm lễ sơn lăng cho bà, có đoạn viết:
Phía trước lăng mộ có dựng tượng 12 võ quan tạc bằng đá nguyên khối, đứng nghiêm trang, kính cẩn thành hai hàng. Đầu tượng đội mũ tròn, mình mặc giáp trụ dài có viền nhiều lớp, chân đi giày chiến kiểu hia cao đường bệ, một tay cầm kiếm, tay còn lại đặt trước ngực như nguyện bảo vệ sự yên giấc của bà Hoa Dung. Ngoài ra, còn hai bức tượng phỗng đá đầu to có ngắn, tóc búi quả đào, mắt lồi, mũi dô, miệng rộng với ý nghĩa là những người hầu cận.
Tượng được tạo tác trong tư thế quỳ chầu đợi lệnh, hai chân quặp ra phía sau, hai tay khoanh trước ngực. Cách lăng mộ không xa còn có ngôi miếu nhỏ thờ tự bà Thứ phi Hoa Dung, phía trước miếu có phiến đá đề dòng chữ Hán: Thiên tiên quốc thánh mẫu.