Orinoco River Río Orinoco | |
---|---|
Cầu Orinoquia gần Ciudad Guayana, Venezuela | |
Lưu vực Orinoco | |
Từ nguyên | Warao for "a place to paddle" |
Vị trí | |
Countries | |
Region | Nam Mỹ |
Đặc điểm địa lý | |
Thượng nguồn | Hydrological source (Main stem) |
• vị trí | Cerro Delgado-Chalbaud, Parima Mountains, Venezuela |
• tọa độ | 2°19′5″B 63°21′42″T / 2,31806°B 63,36167°T |
• cao độ | 1,047 m (3 ft 5,2 in) |
Thượng nguồn thứ 2 | Geographical source (Orinoco-Guaviare-Guayabero-Papamene-Sorrento) |
• vị trí | Headwaters of Rio Sorrento, Paramo de Sumapaz, Meta, Colombia |
• tọa độ | 3°34′2″B 74°31′23″T / 3,56722°B 74,52306°T (xấp xỉ) |
• cao độ | 3,530 m (11,58 ft) (xấp xỉ) |
Cửa sông | Delta Amacuro |
• vị trí | Atlantic Ocean, Venezuela |
• tọa độ | 8°37′B 62°15′T / 8,617°B 62,25°T[2] |
• cao độ | 0 m (0 ft) |
Độ dài | 2,250 km (1,398 mi) |
Diện tích lưu vực | 989,000 km2 (381,855 dặm vuông Anh) |
Độ sâu | |
• tối đa | 100 m (330 ft) |
Lưu lượng | |
• vị trí | Orinoco Delta, Atlantic Ocean |
• trung bình | (Period of data: 1926-2011)37,740 m3/s (1.332,8 cu ft/s)[1] |
• tối thiểu | 21,000 m3/s (741,6 cu ft/s) |
• tối đa | 54,000 m3/s (1.907,0 cu ft/s) |
Lưu lượng | |
• vị trí | Ciudad Bolívar, Venezuela (Basin size: 836,000 km2 (322,781 dặm vuông Anh)) |
• trung bình | ( Period: 1926-2011)32,760 m3/s (1.156,9 cu ft/s)[1] |
Lưu lượng | |
• vị trí | Puerto Ayacucho, Venezuela ( Basin size: 342,000 km2 (132,047 dặm vuông Anh)) |
• trung bình | (Period: 1926-2011)16,182 m3/s (571,5 cu ft/s)[1] |
Lưu lượng | |
• vị trí | Masagua, Colombia (Basin size: 101,000 km2 (38,996 dặm vuông Anh)) |
• trung bình | 4,400 m3/s (155,4 cu ft/s) |
Lưu lượng | |
• vị trí | Tama Tama, Venezuela (Basin size: 37,870 km2 (14,622 dặm vuông Anh) |
• trung bình | 1,400 m3/s (49,4 cu ft/s) |
Đặc trưng lưu vực | |
Phụ lưu | |
• tả ngạn | Casiquiare, Atabapo, Guaviare, Vichada, Tomo, Cinaruco, Capanaparo, Meta, Arauca, Apure, Guárico |
• hữu ngạn | Mavaca, Sipapo, Ocamo, Ventuari, Suapure, Parguaza, Caura, Cuchivero, Aro, Caroní |
Orinoco là một trong những dòng sông dài nhất tại Nam Mỹ với chiều dài 2.140 km (1.330 mi). Lưu vực sông thỉnh thoảng được gọi là Orinoquia,[3] có diện tích 989,000 km2 (381,855 dặm vuông Anh), với 76,3% trong đó thuộc về Venezuela về phần còn lại nằm trên đất Colombia. Orinoco và các chi lưu là hệ thống giao thông chính ở miền đông và vùng nội địa Venezuela và llanos của Colombia.
Mặc dù cửa sông Orinoco ở Đại Tây Dương đã được ghi trong tài liệu của Columbus vào ngày 1 tháng 8 năm 1498 trong tuyến hành trình thứ ba của mình, khởi nguồn của sông tại Cerro Delgado-Chalbaud thuộc dãy Parima mới được khám phá lần đầu vào năm 1951, tức 453 năm sau. Đầu nguồn của sông nằm trên biên giới Venezuelan-Brasil và có độ cao 1.047 m (3.435 ft) và có tọa độ 02°19′5″B 63°21′42″T / 2,31806°B 63,36167°T, và do một đoàn thám hiểm Venezuela-Pháp khám phá ra.
Đồng bằng Orinoco, và các chi lưu ở phía đông llanos như Apure và Meta, được khám phá vào thế kỷ 16 bởi nhà viễn Ambrosius Ehinger cũng những người nối tiếp ông. Năm 1531 Diego de Ordaz, bắt đầu từ cửa sông chính của đồng bằng là Boca de Navios, đã ngược dòng lên đến Meta, và Antonio de Berrio xuôi dòng Casanare, đến Meta, và sau đó xuôi dòng Orinoco và trở lại Coro.
Alexander von Humboldt đã khám phá lưu vực sông vào năm 1800 và có ghi chép về cá heo sông màu hồng và các loài động thực vật.[4]
Dòng chảy của Orinoco tạo thành một vòm hình elipxoit rộng, bao quanh Sơn nguyên Guiana; sông bị phân thành bốn phần có chiều dài không cân bằng và gần tương ứng với khu hoạch theo chiều dọc đối với một sông lớn đêỉn hình:
Ở cửa sông, Orinoco tạo thành một đồng bằng rộng và phân thành hàng trăm nhánh sông và kênh qua 41,000 km2 (0 dặm vuông Anh) rừng đầm lầy. Vào mùa mưa, Orinoco có thể rộng đến 22 kilômét (14 mi) và sâu 100 mét (330 ft).
Hầu hết các sông quan trọng của Venezuela và chi lưu của Orinoco, trong đó lớn nhất là Caroní, hợp lưu với Orinoco tại Puerto Ordaz, gần thác Llovizna. Một đặc trưng của hệ thống sông Orinoco là kênh Casiquiare, bắt đầu là một nhánh của Orinoco, và nối đến Rio Negro, một chi lưu của Amazon, tạo thành một 'kênh đào tự nhiên' giữa Orinoco và Amazon.
Boto, hay Cá heo sông Amazon, cũng cư trú trên hệ thống sông Orinoco. Cá sấu Orinoco là một trong những loài bò sát hiếm nhất thế giới, với dưới 250 cá thể còn lại trong tự nhiên. Phạm vi trong tự nhiên của loài cá sấu này nay chỉ còn hạn chế ở lực vực sông Orinoco. Orinoco là nơi sinh sống của Piranha Caribe hay Pygocentrus cariba.
Tàu bè có thể đi lại trên hầu hết chiều dài của dòng sông, và việc nạo vét cho phép các tàu biển có thế đi xa đến Ciudad Bolívar, tại nơi hợp lưu với sông Caroní, 435 km (270 mi) từ cửa sông. Tàu chở hàng hóa có thể đi xa đến Puerto Ayacucho và Atures Rapids.
Năm 1926, một thanh tra viên người Venezuela đã tìm ra một trong các mỏ quặng sắt trưc lượng lớn nhất gần đồng bằng sông Orinoco, phía nam của thị trấn San Felix tại một ngọn núi mang tên El Florero. Khai thác quy mô các tài nguyên quặng bắt đầu sau khi kết thúc Thế chiến thứ II, điều hành là một hàng Venezuela và một công ty thép Hoa Kỳ. Vào đầu thập niên 195s, khoảng 10.000 tấn đất lẫn quặng được mang đi mỗi ngày.[5]
Lưu vực sông Orinoco cũng có tài nguyên cát dầu tại đai dầu Orinoco, có thể trở thành một nguồn cung cấp dầu trong tương lai.[6]
Từ năm 1988, chính quyền địa phương Ciudad Guayana đã tổ chức một cuội đua thuyền trên Orinoco và Caroní, và có đến 1000 đấu thủ tham gia. Từ năm 1991, "Paso a Nado Internacional de los Rios Orinoco-Caroní" đã được tổ chức hàng năm, và một ngày chủ nhật gần 19 tháng 4. Trên bình diện thế giới, giải thi đầu này đã đạt được tầm quan trọng, và có một số lượng lớn các đối thủ tham gia thi đấu.[7]