Saga vốn là tự dạng phổ biến nhất, ngoài ra còn søga (Føroyar), soge (Na Uy) đều hàm nghĩa "sử thi" hoặc "huyền thoại"[1]. Người Thụy Điển cũng đề xuất thuật ngữkonstsaga, nghĩa là "dân thoại"[2][3][4]. Theo nghĩa hẹp, saga gồm cả huyền sử và thực sử, được minh diễn bằng văn vần[5].
Saga được học giới tạm chia mấy chủ đề sau :
Truyền kì (fornaldarsögur)
Quân vương (konungasögur)
Thánh tích (heilagramannasögur, biskupasögur)
Kị sĩ (riddarasögur)
Dân tục (Íslendingasögur, samtíðarsögur, samtímasögur)
Truyền thống văn học Bắc Âu đã khởi nguyên từ tiền Cơ Đốc, căn bản lưu lại qua thời gian bằng hai thể loại edda và saga, chủ yếu thông qua trí nhớ bởi lúc này văn tự chưa phổ cập. Trong khi edda là những bài thơ ngắn và thường lưu hành trong giới quyền quý, thì saga thuộc về giai cấp bình dân với cấu trúc phức tạp hơn.
Ở nguyên bản, edda là sự ghi nhớ những làn điệu biểu diễn, còn saga thuần túy là huyền thoại được kể trong những kì nghỉ đông dài để xua bớt nỗi buồn chán, sự cô quạnh. Ở thời hoàng kim, saga rất phong phú tính tự sự. Nội dung thường đề cập đến những tráng sĩ chinh phục tự nhiên, những thần tiên, quái vật đầy dẫy trên rừng núi và ngoài bể cả. Vì thế, saga cũng được coi là hình thức sáng tác và chuyển tải thần tích sinh động nhất, hay nói cách khác, là dưỡng chất phát triển thần thoại Bắc Âu.
Saga bắt đầu vượt ra ngoài không gian Bắc Âu nhờ những chuyến thám hiểm của người Viking thế kỉ IX-XI. Văn hóa saga dần trở nên suy tàn chỉ khi các triều đình Bắc Âu lần lượt rửa tội theo Công giáo. Saga mất đi sức ảnh hưởng cùng với các dị giáo và chính thức mai một khỏi sinh hoạt dân gian là từ đại dịch Tử Thần Đen (thế kỉ XIV).
Mãi tới nửa sau thế kỉ XIX, nhờ nỗ lực của nhạc gia Richard Wagner và một số nhà ngữ văn học, saga được quan tâm dần trở lại cùng với sự phục hưng truyền thống thần thoại Bắc Âu.
Ngày nay, saga là chủ đề nghiên cứu hấp dẫn trong học giới về tiến trình phát triển ngôn ngữBắc Âu, đồng thời cung cấp cái nhìn hầu như hoàn bị về phong tục tập quán các sắc tộc Bắc Âu ở thời bán khai.
^Dictionary of Old Norse Prose/Ordbog over det norrøne prosasprog (Copenhagen: [Arnamagnæan Commission/Arnamagnæanske kommission], 1983–), s.v. '1 saga sb. f.'.
^"saw, n.2.", OED Online, 1st edn (Oxford: Oxford University Press, December 2019).
^"saga, n.1.", OED Online, 1st edn (Oxford: Oxford University Press, December 2019).
^J. R. R. Tolkien's The Lord of the Rings series was translated into Swedish by Åke Ohlmarks with the title Sagan om ringen: "The Saga of the Ring". (The 2004 translation was titled Ringarnas herre, a literal translation from the original.) Icelandic journalist Þorsteinn Thorarensen (1926–2006) translated the work as Hringadróttins saga meaning "Saga of the Lord of the Rings".
Clover, Carol J. et al. Old Norse-Icelandic Literature: A critical guide (University of Toronto Press, 2005) ISBN978-0802038234
Gade, Kari Ellen (ed.) Poetry from the Kings' Sagas 2 From c. 1035 to c. 1300 (Brepols Publishers. 2009) ISBN978-2-503-51897-8
Gordon, E. V. (ed) An Introduction to Old Norse (Oxford University Press; 2nd ed. 1981) ISBN978-0-19-811184-9
Jakobsson, Armann; Fredrik Heinemann (trans) A Sense of Belonging: Morkinskinna and Icelandic Identity, c. 1220 (Syddansk Universitetsforlag. 2014) ISBN978-8776748456
Jakobsson, Ármann Icelandic sagas (The Oxford Dictionary of the Middle Ages 2nd Ed. Robert E. Bjork. 2010) ISBN9780199574834
Đầu tiên, phim mở màn với những tình huống khá cliché của một cậu sinh viên tên Oliver Quick đang trên hành trình hòa nhập với những sinh viên khác của trường Đại học Oxford
Trong một ngôi nhà đồn rằng có phù thủy sinh sống đang có hai người, đó là Aoko Aozaki đang ở thời kỳ tập sự trở thành một thuật sư và người hướng dẫn cô là một phù thủy trẻ tên Alice Kuonji
Kena: Bridge of Spirits là một tựa game indie được phát triển bởi một studio Mỹ mang tên Ember Lab - trước đây là một hãng chuyên làm phim hoạt hình 3D và đã rất thành công với phim ngắn chuyển thể từ tựa game huyền thoại Zelda