Scandinavian Hunter-Gatherer

Scandinavian Hunter-Gatherer
Tổ tiên di truyền của các nhóm săn bắt-hái lượm châu Âu giữa thời điểm 14 ka và 9 ka, với khu vực quần tụ Scandinavian Hunter-Gatherer (SHG) được tô màu vàng. Các con số đi kèm tương ứng với các niên đại mẫu cân chỉnh.[1]

Trong cổ di truyền học, thuật ngữ Scandinavian Hunter-Gatherer (SHG) được dùng để chỉ một thành phần tổ tiên đặc trưng cho hậu duệ của các nhóm người săn bắt-hái lượm thời đại đồ đá giữa của Scandinavia.[a][3][4] Các nghiên cứu di truyền chỉ ra rằng, SHG là sự trộn lẫn của cụm Western Hunter-Gatherer (WHG), vốn di cư tới Scandinavia từ phía nam trong thế Toàn tân, và cụm Eastern Hunter-Gatherer (EHG), vốn di cư tới Scandinavia từ phía bắc dọc bờ Na Uy. Trong thời đại đồ đá mới, SHG tiếp tục lai tạp với cụm Early European Farmer (EEF) và cụm Western Steppe Herder (WSH). Sự liên tục di truyền đã được tìm thấy giữa cụm SHG và các thành viên của Văn hóa Pitted Ware (PWC), và ở một mức độ nhỏ hơn, giữa SHG và người châu Âu phía bắc hiện đại.[b] Mặt khác, người Sámi đã được chứng minh là không có quan hệ gì với PWC.[c]

Nghiên cứu

[sửa | sửa mã nguồn]

Cụm Scandinavian Hunter-Gatherer (SHG) được Lazaridis và đồng nghiệp (2014) xác định là một thành phần tổ tiên đặc trưng. Nhiều di cốt được khai quật ở Motala, Thụy Điển, cùng một nhóm các di cốt 5.000 tuổi của người săn bắt hái lượm thuộc Văn hóa Pitted Ware (PWC), đều được định danh là SHG. Nghiên cứu chỉ ra rằng, một cá nhân SHG từ Motala (định danh 'Motala12') mang 81% thành phần Western Hunter-Gatherer (WHG) và 19% thành phần Ancient North Eurasian (ANE).[7]

Các mẫu người châu Âu thời đại đá giữa với ước lượng thành phần tổ tiên SHG.[5]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Earlier aDNA studies suggest the presence of three genetic groups in early postglacial Europe: Western hunter–gatherers (WHG), Eastern hunter–gatherers (EHG), and Scandinavian hunter–gatherers (SHG)4. The SHG have been modelled as a mixture of WHG and EHG."[2]
  2. ^ "Modern-day northern Europeans trace limited amounts of genetic material back to the SHGs."[5]
  3. ^ "Population continuity between the PWC and modern Saami can be rejected under all assumed ancestral population size combinations."[6]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Posth, Cosimo; Yu, He; Ghalichi, Ayshin (tháng 3 năm 2023). “Palaeogenomics of Upper Palaeolithic to Neolithic European hunter-gatherers”. Nature (bằng tiếng Anh). 615 (7950): 117–126. Bibcode:2023Natur.615..117P. doi:10.1038/s41586-023-05726-0. hdl:10256/23099. ISSN 1476-4687. PMC 9977688. PMID 36859578.
  2. ^ Kashuba 2019.
  3. ^ Eisenmann 2018.
  4. ^ Manninen, Mikael A.; Damlien, Hege; Kleppe, Jan Ingolf; Knutsson, Kjel; Murashkin, Anton; Niemi, Anja R.; Rosenvinge, Carine S.; Persson, Per (tháng 4 năm 2021). “First encounters in the north: cultural diversity and gene flow in Early Mesolithic Scandinavia”. Antiquity (bằng tiếng Anh). 95 (380): 310–328. doi:10.15184/aqy.2020.252. hdl:10037/21829. ISSN 0003-598X.
  5. ^ a b Günther và đồng nghiệp 2018.
  6. ^ Malmström 2009.
  7. ^ Lazaridis 2014.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Lời Thì Thầm Của Trái Tim - Khúc ca dịu êm của tuổi trẻ
Lời Thì Thầm Của Trái Tim - Khúc ca dịu êm của tuổi trẻ
Trong những ngày ngoài kia là trận chiến căng thẳng, trong lòng là những trận chiến của lắng lo ngột ngạt
Nhân vật Aoi Todo trong Jujutsu Kaisen
Nhân vật Aoi Todo trong Jujutsu Kaisen
Aoi Todo là một thanh niên cao lớn, có chiều cao tương đương với Satoru Gojo. Anh ta có thân hình vạm vỡ, vạm vỡ và làn da tương đối rám nắng
The Silence of The Marsh - Sự Yên Lặng Của Đầm Lầy
The Silence of The Marsh - Sự Yên Lặng Của Đầm Lầy
The Silence of The Marsh (Sự Yên Lặng Của Đầm Lầy) là một phim tâm lý tội phạm có lối kể chuyện thú vị với các tình tiết xen lẫn giữa đời thực và tiểu thuyết
Đấng tối cao Bellriver - Overlord
Đấng tối cao Bellriver - Overlord
Bellriver một trong những quân sư chiến lược gia trong hàng ngũ 41 Đấng Tối Cao của Đại Lăng Nazarick