Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung hay nghịch sản cổ tử cung (thường được viết tắt là CIN, theo tiếng Anh Cervical Intraepithelial rNeoplasia) chỉ những thay đổi của niêm mạc cổ tử cung có tiềm năng ác tính nhưng chưa có sự xâm nhập vào mô đệm.
Đa số hiện tượng này xuất hiện ở vùng chuyển tiếp giữa biểu mô lát và biểu mô tuyến (hay biểu mô trụ) của cổ tử cung. Đây là vùng thường xuyên biến đổi và rất nhạy cảm với những thay đổi của môi trường xung quanh nó.
Từ tân sinh trong biểu mô cổ tử cung có thể sẽ diễn tiến thành ung thư tại chỗ, rồi ung thư xâm lấn cổ tử cung – một bệnh nguy hiểm thường gặp ở phụ nữ, nhất là các nước đang phát triển mà việc điều trị khó khăn, tốn kém.
Do đó, việc phát hiện sớm những tổn thương này có ý nghĩa quan trọng. Trong khi đó, cổ tử cung là một cơ quan dễ khảo sát và xét nghiệm đóng vai trò chính trong việc này là phết mỏng tế bào cổ tử cung lại là xét nghiệm rẻ tiền, đơn giản.
Những yếu tố thuận lợi cho sự xuất hiện tân sinh trong biểu mô cổ tử cung:
Cổ tử cung gồm 2 phần: cổ ngoài và cổ trong. Trong đó, ở cổ ngoài là các tế bào biểu mô lát giống tế bào biểu mô lát của âm đạo nhưng trơn láng hơn, còn cổ trong là biểu mô tuyến gần giống như biểu mô của nội mạc tử cung. Chỗ tiếp giáp giữa biểu mô lát của cổ ngoài và biểu mô tuyến của cổ trong được gọi là lỗ cổ ngoài mô học.
Đây là vùng chuyển tiếp của hai loại biểu mô. Tại đây có các tế bào dự trữ, có khả năng biến thành biểu mô lát hoặc biểu mô tuyến nhằm tái tạo những tổn thương của cố tử cung. Một sự thay đổi pH của âm đạo có thể do viêm nhiễm, hoẵc tình trạng cường estrogen sẽ làm tăng sinh và tăng tiết các tế bào cổ trong, chúng mọc lan ra ngoài và sẽ có sự hiện diện các tế bào biểu mô tuyến trên bề mặt biểu mô lát của cổ ngoài tử cung. Tình trạng đó được gọi là lộ tuyến cổ tử cung.
Khi những thay đổi trên không còn, lộ tuyến cổ tử cung sẽ biến mất, đó là sự tái tạo của cổ tử cung. Sự tái tạo này còn được gọi là biểu mô hóa – các tế bào tuyến sẽ biến mất nhường chỗ cho các tế bào lát. Trong quá trình này, có sự chuyển sản của các tế bào dự trữ của biểu mô tuyến thành các tế bào lát. Sự tái tạo này có thể đi kèm với một sự tăng sinh bất thường khi có sự hiện diện của một tác nhân nào đó thường nhất là do nhiễm HPV, tạo ra những tế bào bất thường – hiện tượng này chính là tân sinh trong biểu mô cổ tử cung hay nghịch sản cổ tử cung.
Ngoài ra trong quá trình tái tạo, vùng chuyển sản cũng có thể chuyển thành biểu mô tuyến và cùng với những yếu tố nguy cơ như trên cũng có thể diễn tiến thành ung thư tế bào tuyến cổ tử cung.
Tân sinh trong biểu mô thường gặp ở phụ nữ trẻ, đỉnh cao là 20–40 tuổi. Người ta ghi nhận diễn tiến từ tân sinh trong biểu mô đến ung thư xâm lấn cần 10–15 năm.
Bệnh không có triệu chứng lâm sàng rõ ràng. Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào các phương tiện cận lầm sàng:
Sinh thiết được thực hiện dưới hướng dẫn của máy soi. Đôi khi sinh thiết, ngoài để chẩn đoán còn là một phương pháp điều trị đối với giai đoạn sớm của bệnh, đó là trường hợp khoét chóp cổ tử cung sinh thiết.
Phân độ của CIN thường dựa trên kết quả của mẫu phết mỏng cổ tử cung. Được chia làm 3 mức độ:
CIN II và III được xem là tổn thương trong biểu mô lát mức độ cao (HSIL-high grade squamous intraepithelial lesions).3
Còn gọi là ung thư tại chỗ khi toàn bộ bề dày lớp biểu mô bị ảnh hưởng.
Khoảng 60% có thể tự biến mất trong vài tháng và có khoảng 11% sẽ tiến triển thành ung thư.4 Do đó cần làm lại phết tế bào cổ tử cung sau khoảng 4–6 tháng. Nếu sang thương vẫn còn, có thể xử trí bằng đốt điện, đốt lạnh hoặc đốt bằng tia laser.
Đối với phụ nữ ở tuổi mãn kinh, khi thấy kết quả là nghịch sản nhẹ thì có thể sử dụng estrogen bôi tại chỗ trong vòng 2 tháng trước khi kiểm tra lại bằng phết tế bào cổ tử cung.
Chỉ có khoảng 40% là tự khỏi, và khoảng 22% sẽ tiến triển thành ung thư,4 do đó CIN II buộc phải điều trị với các phương pháp tương tự như trên. Khi sang thương ăn sâu vào lỗ trong thì thực hiện khoét chóp cổ tử cung.
Khoét chóp là phương pháp chính trong chẩn đoán và điều trị những tổn thương giai đoạn sớm. Khoét chóp sẽ lấy đi toàn bộ vùng chuyển tiếp lát-trụ ở quanh cổ tử cung. Tùy theo vùng chuyển tiếp nằm ở đâu thì quyết định chiều sâu của khoét chóp.
Khoét chóp là phương pháp được chọn lựa. Tuy nhiên trong một số trường hợp tổn thương lan rộng vào đến lỗ trong cổ tử cung mà khoét chóp không đảm bảo hoặc khi bệnh nhân lớn tuổi, có đủ con, không đủ điều kiện để theo dõi bệnh nhân lâu dài, khi bệnh nhân có các tình trạng bệnh lý khác đi kèm như: u xơ cơ tử cung, rối loạn kinh nguyệt, sa sinh dục... thì cắt tử cung toàn phần là một chọn lựa tốt hơn.
Cuộc nghiên cứu tìm thuốc chủng ngừa vaccine cho HPV do hai bác sĩ Ian Frazer và Jian Zhou đã thành công. Trong tương lai gần, phụ nữ nên chủng ngừa để tránh nhiễm siêu vi trùng HPV cổ tử cung và hy vọng bệnh ung thư cổ tử cung sẽ trở thành bệnh hiếm thấy.[1]
Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư thường gặp ở giới nữ. Trong khi cổ tử cung là một cơ quan dễ tiếp cận, do đó phát hiện sớm những tổn thương tiền ung là điều có thể làm được và cần thiết.
Tân sinh trong biểu mô là một tổn thương tiền ung. Nếu được phát hiện ở giai đoạn này, việc điều trị sẽ dễ dàng và ít tốn kém hơn, tiên lượng bệnh nhân cũng tốt hơn.
Trong số những phương tiện để chẩn đoán, thì phết tế bào cổ tử cung là một xét nghiệm đơn giản, ít tốn kém và khá hữu hiệu, có thể áp dụng rộng rãi và thích hợp cho các nước đang phát triển.