Ung thư dương vật là một sự tăng trưởng ác tính được tìm thấy trên da hoặc trong các mô của dương vật. Khoảng 95% ung thư dương vật là ung thư biểu mô tế bào vảy. Các loại ung thư dương vật khác như ung thư biểu mô tế bào Merkel, ung thư biểu mô tế bào nhỏ, u ác tính và các loại ung thư khác thường hiếm gặp.[1]
Tiên lượng tùy thuộc vào bệnh nhân. Nói chung, ung thư được chẩn đoán càng sớm, tiên lượng càng tốt. Tỷ lệ sống 5 năm chung cho tất cả các giai đoạn của ung thư dương vật là khoảng 50%.
Ung thư dương vật là một loại ung thư hiếm gặp ở các nước phát triển với tỷ lệ mắc hàng năm dao động từ 0,3 đến 1 trên 100.000 mỗi năm chiếm khoảng 0,4–0,6% của tất cả các khối u ác tính. Tỷ lệ hàng năm là khoảng 1 trong 100.000 người đàn ông ở Hoa Kỳ,[4] 1 trong 250.000 ở Úc,[5] và 0,82 trên 100.000 ở Đan Mạch.[6] Ở Anh, ít hơn 500 người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư dương vật mỗi năm.[7][8]
Tuy nhiên, trong ung thư dương vật ở các nước đang phát triển thì phổ biến hơn nhiều. Ví dụ, ở Paraguay, Uruguay, Uganda và Brazil tỷ lệ mắc tươnuiwnng là 4,2, 4,4, 2,8 và 1,5–3,7 trên 100.000. Ở một số quốc gia Nam Mỹ, châu Phi và châu Á, loại ung thư này chiếm tới 10% các bệnh ác tính ở nam giới.
Nguy cơ suốt đời đã được ước tính là 1 trong 1.437 ở Hoa Kỳ và 1 trong 1.694 ở Đan Mạch.[9]
^Bleeker, M. C. G.; Heideman, D. A. M.; Snijders, P. J. F.; Horenblas, S.; Dillner, J.; Meijer, C. J. L. M. (2008). “Penile cancer: Epidemiology, pathogenesis and prevention”. World Journal of Urology. 27 (2): 141–150. doi:10.1007/s00345-008-0302-z. PMID18607597.
^Frisch M, Friis S, Kjær SK, Melbye M. Falling Incidence Of Penis Cancer In An Uncircumcised Population (Denmark 1943-90). BMJ: British Medical Journal. 1995;311(7018):1471.
Một công nghệ mới xuất hiện có thể giúp cuộc sống của loài người dần trở nên dễ dàng hơn, nhưng đôi khi, nó cũng mang theo những thử thách, những đợt khủng hoảng mà chúng ta phải đương đầu