Đối với lớp Cá vây tia, vây bụng gồm hai đai xương có gốc cốt hóa sụn gắn với xương quay. Các tia vây hiện trên da (lepidotrichia) ở vị trí xa các xương quay. Có ba cặp cơ trên mỗi mặt lưng và bụng của đai bụng giúp giản và khép vây từ cơ thể.
Cấu tạo lưng bụng đặc biệt ở lớp Cá vây tia. Cá bống và Họ Cá Lumpsucker điều chỉnh vây bụng của chúng thành một đĩa mút cho phép chúng bám vào các chất nền hoặc leo lên các cấu trúc địa hình, chẳng hạn như thác nước.[2] Ở họ Phallostethidae, con đực điều chỉnh cấu trúc vây lưng bụng vào trong cơ quan giao phối có gai để bám vào con cái trong quá trình giao phối.[3]
Bộ xương vây bụng của Danio rerio.
Cá bống điểu chỉnh vây bụng thành một đĩa dính
Họ Cá Lumpsucker sử dụng vây bụng có thể điều chỉnh được basm vào chất nền.
Ở trại thái bơi ổn định của lớp Cá vây tia, vây bụng được chủ động kiểm soát và được sử dụng để cung cấp năng lượng cho lực khắc phục.[4][5] Trong các chuyển động của toàn cơ thể, các chuyển động cẩn thận theo thời gian của vây bụng cho phép vây bụng tạo ra các lực làm giảm lực phát sinh từ toàn bộ cơ thể, giúp cá được ổn định. Về vấn đề di chuyển, dữ liệu điện cơ đồ cho thấy cơ vây bụng được kích hoạt sau khi bắt đầu có sự vận động, chỉ ra rằng vây được sử dụng để ổn định cơ thể nhiều hơn thay vì tạo động lực di chuyển.[4].
Ở cá đuối, vây bụng được dùng để "đẩy," các vây bụng sẽ đẩy chất nền có thể đồng bộ hoặc không để đưa con vật tiến về phía trước.[6]
Không giống phát triển chi ở động vật bốn chân, trong đó các chồi chi trước và chi sau xuất hiện cùng lúc, chồi vây bụng xuất hiện muộn hơn nhiều so với vây ức [7]. Trong khi chồi vây ức xuất hiện rõ ràng sau 36 giờ thụ tinh (hpf) đối với loài Cá ngựa vằn, chồi vây bụng chỉ xuất hiện rõ ràng vào khoảng 21 ngày sau thụ tinh (dpf), khoảng khi con vật dài 8 mm.
^Maie, Takashi; Schoenfuss, Heiko L.; Blob, Richard W. (ngày 10 tháng 9 năm 2007). “Ontogenetic Scaling of Body Proportions In Waterfall-climbing Gobiid Fishes from Hawai'i and Dominica: Implications for Locomotor Function”. Copeia. 2007 (3): 755–764. doi:10.1643/0045-8511(2007)2007[755:OSOBPI]2.0.CO;2. ISSN0045-8511.
^Shibukawa, Koichi, Dinh Dac Tran, and Loi Xuan Tran. "Phallostethus cuulong, a new species of priapiumfish (Actinopterygii: Atheriniformes: Phallostethidae) from the Vietnamese Mekong." Zootaxa 3363.1 (2012): 45-51.
^ abStanden, E. M. (ngày 15 tháng 9 năm 2008). “Pelvic fin locomotor function in fishes: three-dimensional kinematics in rainbow trout (Oncorhynchus mykiss)”. Journal of Experimental Biology (bằng tiếng Anh). 211 (18): 2931–2942. doi:10.1242/jeb.018572. ISSN0022-0949. PMID18775930.
^Standen, E. M. (ngày 1 tháng 3 năm 2010). “Muscle activity and hydrodynamic function of pelvic fins in trout (Oncorhynchus mykiss)”. Journal of Experimental Biology (bằng tiếng Anh). 213 (5): 831–841. doi:10.1242/jeb.033084. ISSN0022-0949. PMID20154199.
^Macesic, Laura J.; Kajiura, Stephen M. (ngày 1 tháng 10 năm 2010). “Comparative punting kinematics and pelvic fin musculature of benthic batoids”. Journal of Morphology (bằng tiếng Anh). 271 (10): 1219–1228. doi:10.1002/jmor.10865. ISSN1097-4687. PMID20623523.
^Grandel, Heiner; Schulte-Merker, Stefan (ngày 1 tháng 12 năm 1998). “The development of the paired fins in the Zebrafish (Danio rerio)”. Mechanisms of Development (bằng tiếng Anh). 79 (1–2): 99–120. doi:10.1016/S0925-4773(98)00176-2. ISSN0925-4773. PMID10349624.
Với những ai đã hoàn thành xong trò chơi, hẳn sẽ khá ngạc nhiên về cái kết ẩn được giấu kỹ, theo đó hóa ra người mà chúng ta tưởng là Phản diện lại là một trong những Chính diện ngầm