Vương Thực Phủ | |
---|---|
Tên chữ | Thật Phủ |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1250 |
Nơi sinh | Đại Đô |
Mất | 1307 |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | nhà viết kịch, nhà văn |
Quốc tịch | nhà Nguyên |
Tác phẩm | Tây sương ký |
Vương Thực Phủ (王實甫, ?-?), tên thực là Đức Tín (徳信) là nhà viết kịch Trung Quốc đời nhà Nguyên, không rõ năm sinh năm mất chỉ biết ông thọ đến khoảng 60 tuổi. Là nhà văn nổi tiếng đương thời, Vương Thực Phủ được biết đến nhiều nhất như một kịch tác gia với 40 vở tạp kịch đã sáng tác, tuy đến ngày nay chỉ còn nguyên vẹn 3 vở[1].
Vương Thực Phủ là người Đại Đô, nay là thành phố Bắc Kinh, đã từng ra làm quan sau đó cáo quan về nhà, "có của mọn đủ chi dùng, có vườn rừng để rong chơi".
Là một văn sĩ tài hoa đương thời, như lời nhận xét của Giả Trọng Minh đời nhà Minh trong bài Lăng Ba tiên khúc (Khúc nhạc vũ của tiên nữ ở Lăng Ba): "làm từ chương, phong vận đẹp, trong sĩ lâm ai cũng bái phục", thời kỳ hoạt động sáng tác chủ yếu của Vương Thực Phủ nằm trong khoảng những năm Đại đức (1297-1307) đời Nguyên Thành Tông (1295-1307).
Vương Thực Phủ sáng tác khoảng 40 vở kịch nhưng hiện nay chỉ còn nguyên vẹn 3 vở:
Ngoài 3 vở kịch nói trên, hiện nay ở Trung Quốc còn 2 vở kịch khác không nguyên vẹn của Vương Thực Phủ là vở Tô Tiểu Khanh nguyệt dạ phiến trà thuyền (穌小卿月夜販茶船, Tô Tiểu Khanh trên con thuyền buôn chè trong đêm trăng) và vở Hàn Thái Vân ti trúc Phù Dung đình (韓采雲絲竹芙蓉亭, Khúc nhạc của Hàn Thái Vân ở đình Phù Dung)[1]. Bên cạnh đó, Vương Thực Phủ cũng để lại đến nay một số rất ít tản khúc.
Vở kịch Tây sương ký được Nhượng Tống dịch ra tiếng Việt rất thành công, nhan đề Mái Tây, nhà xuất bản Tân Việt xuất bản lần đầu năm 1943, được tái bản nhiều lần, lần mới nhất do nhà xuất bản Lao động, năm 2011.