Yaeyama vào thập niên 1880
| |
Lịch sử | |
---|---|
Nhật | |
Tên gọi | Yaeyama |
Đặt hàng | 1885 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Yokosuka, Nhật Bản |
Đặt lườn | tháng 6 năm 1887 |
Hạ thủy | tháng 3 năm 1889 |
Hoàn thành | 15 tháng 3 năm 1890 |
Số phận | Bị loại bỏ 1 tháng 4 năm 1911 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | tàu tuần dương không được bảo vệ |
Trọng tải choán nước | 1.584 tấn Anh (1.609 t) |
Chiều dài | 96,9 m (317 ft 11 in) w/l |
Sườn ngang | 10,5 m (34 ft 5 in) |
Mớn nước | 4 m (13 ft 1 in) |
Động cơ đẩy | 2 trục, 6 nồi hơi (8 sau năm 1902), 5.630 hp (4.200 kW) |
Tốc độ | 20,75 hải lý trên giờ (23,88 mph; 38,43 km/h) |
Tầm xa | 5000 nm @ 10 nút |
Sức chứa | 350 tấn than |
Thủy thủ đoàn tối đa | 200 |
Vũ khí |
|
Yaeyama là một tàu tuần dương không được bảo vệ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Cái tên Yaeyama lấy theo tên quần đảo Yaeyama, phần cực nam của ba hòn đảo tạo thành quận Okinawa hiện nay. Yaeyama được sử dụng bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản như là một tàu thông báo, trinh sát và gửi các thông điệp ưu tiên cao.
Yaeyama được thiết kế dưới sự giám sát của cố vấn quân sự Pháp Emile Bertin, và được đóng tại Nhật Bản bởi Xưởng Hải quân Yokosuka. Động cơ của tàu là loại động cơ hơi nước 3 mức 3 xi lanh cung cấp 6 nồi hơi nhập khẩu từ Hawthorn Leslie and Company ở Anh. Với động cơ mạnh mẽ, tốc độ 20,75 hải lý trên giờ (38,43 km/h), trang bị vũ khí hạng nặng và bọc thép, Yaeyama là một ví dụ về triết học Jeune Ecole về chiến tranh hải quân do Bertin ủng hộ.[1] Do kích thước nhỏ của nó, đôi khi nó được phân loại là tàu pháo hoặc tàu hộ tống nhỏ.
Yaeyama là tàu bọc thép được sản xuất trong nước thứ hai tại Nhật Bản. Nó dùng hai cột buồm cho động cơ buồm hơi phụ trợ. Yaeyama được trang bị 3 khẩu súng QF 4,7 inch và 8 khẩu QF 3-pounder Hotchkiss. Ngoài ra, nó mang theo hai ngư lôi, gắn trên boong.[2]