Cholecystokinin tetrapeptide (CCK-4, Trp - Met - Asp - Phe -NH2) là một mảnh peptide có nguồn gốc từ hormone peptide lớn hơn cholecystokinin. Không giống như cholecystokin có nhiều vai trò khác nhau trong hệ thống tiêu hóa cũng như tác dụng của hệ thần kinh trung ương, CCK-4 hoạt động chủ yếu trong não như một chất gây mê, mặc dù nó giữ lại một số hiệu ứng GI, nhưng không nhiều như CCK-8 hoặc chiều dài đầy đủ polypeptide CCK-58.
CCK-4 đáng tin cậy gây ra các triệu chứng lo âu nghiêm trọng khi dùng cho người với liều lượng ít nhất là 50μg,[1] và thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học để gây ra các cơn hoảng loạn cho mục đích thử nghiệm các loại thuốc giải lo âu mới.[2][3][4][5] Vì là peptide, CCK-4 phải được tiêm bằng cách tiêm và nhanh chóng bị phá vỡ một lần trong cơ thể nên chỉ có thời gian tác dụng ngắn,[6] mặc dù đã biết rất nhiều chất tương tự tổng hợp có đặc tính biến đổi.[7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17]
^Eser D, Leicht G, Lutz J, Wenninger S, Kirsch V, Schüle C, Karch S, Baghai T, Pogarell O, Born C, Rupprecht R, Mulert C (tháng 12 năm 2007). “Functional neuroanatomy of CCK-4-induced panic attacks in healthy volunteers”. Human Brain Mapping. 30 (2): 511–22. doi:10.1002/hbm.20522. PMID18095276.
^Koulischer D, Moroder L, Deschodt-Lanckman M (tháng 8 năm 1982). “Degradation of cholecystokinin octapeptide, related fragments and analogs by human and rat plasma in vitro”. Regulatory Peptides. 4 (3): 127–139. doi:10.1016/0167-0115(82)90080-5. PMID6291099.
^Blommaert AG, Dhôtel H, Ducos B, Durieux C, Goudreau N, Bado A, Garbay C, Roques BP (tháng 2 năm 1997). “Structure-based design of new constrained cyclic agonists of the cholecystokinin CCK-B receptor”. Journal of Medicinal Chemistry. 40 (5): 647–58. doi:10.1021/jm9603072. PMID9057851.
^Bellier B, Million ME, DaNascimento S, Meudal H, Kellou S, Maigret B, Garbay C (tháng 10 năm 2000). “Replacement of glycine with dicarbonyl and related moieties in analogues of the C-terminal pentapeptide of cholecystokinin: CCK(2) agonists displaying a novel binding mode”. Journal of Medicinal Chemistry. 43 (20): 3614–23. doi:10.1021/jm0000416. PMID11020275.
^Bellier B, Garbay C (2003). “How a single inversion of configuration leads to a reversal of the binding mode: proposal of a novel arrangement of CCK2 ligands in their receptor, and contribution to the development of peptidomimetic or non-peptide CCK2 ligands”. European Journal of Medicinal Chemistry. 38 (7–8): 671–86. doi:10.1016/S0223-5234(03)00112-0. PMID12932898.
^Bellier B, Crété D, Million ME, Beslot F, Bado A, Garbay C, Daugé V (tháng 11 năm 2004). “New CCK2 agonists confirming the heterogeneity of CCK2 receptors: characterisation of BBL454”. Naunyn-Schmiedeberg's Archives of Pharmacology. 370 (5): 404–13. doi:10.1007/s00210-004-0969-7. PMID15480577.
^Proskuriakova TV, Bespalova ZhD, Pal'keeva ME, Petrichenko OB, Pankratova NV, Shokhonova VA, Anokhina IP (2005). “[Biological activity of cholecystokinin-(30-33) tetrapeptide analogs]”. Bioorganicheskaia Khimiia (bằng tiếng Nga). 31 (2): 130–9. PMID15889786.
^Anokhina IP, Proskuriakova TV, Bespalova ZhD, Pal'keeva ME, Shokhonova VA, Petrichenko OB (2006). “[Effect of a cholecystokinin tetrapeptide analogue on opioid reception under acute and chronic morphine administration]”. Bioorganicheskaia Khimiia (bằng tiếng Nga). 32 (3): 276–83. PMID16808170.
^Noble F (2007). “Pharmacology of CCKRs and SAR studies of peptidic analog ligands”. Current Topics in Medicinal Chemistry. 7 (12): 1173–9. doi:10.2174/156802607780960447. PMID17584139.
^García-López MT, González-Muñiz R, Martín-Martínez M, Herranz R (2007). “Strategies for design of non peptide CCK1R agonist/antagonist ligands”. Current Topics in Medicinal Chemistry. 7 (12): 1180–94. doi:10.2174/156802607780960537. PMID17584140.
^Kalindjian SB, McDonald IM (2007). “Strategies for the design of non-peptide CCK2 receptor agonist and antagonist ligand”. Current Topics in Medicinal Chemistry. 7 (12): 1195–204. doi:10.2174/156802607780960500. PMID17584141.