Dương Đình Nghệ

Dương Đình Nghệ
Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ
Tại vị931 – 937
Tiền nhiệmKhúc Thừa Mỹ
Kế nhiệmKiều Công Tiễn
Thông tin chung
Sinh22 tháng 11 năm 874[cần dẫn nguồn]
Làng Giàng[cần dẫn nguồn], Ái Châu
MấtTháng 3 năm 937
Đại La
Hậu duệDương Tam Kha
Tên đầy đủ
Dương Đình Nghệ
(楊廷藝)

Dương Đình Nghệ (chữ Hán: 楊廷藝 22 tháng 11 năm 874937)[1], là một nhà quân sự, chính trị người Việt, người đã cùng 3.000 giả tử hành quân từ Thanh Hóa tiến ra Đại La đánh bại quân Nam Hán đang chiếm đóng ở đó. Dương Đình Nghệ tự mình phong là Tiết độ sứ, trông coi các châu. Đến năm 937, ông bị viên tướng cấp dưới là Kiều Công Tiễn giết hại. [2][3]

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại Việt sử ký toàn thư, ngoại kỷ, Quyển V chép là Dương Đình Nghệ kèm ghi chú: "Cương mục ghi Dương Diên Nghệ, người Ái Châu, tức Thanh Hóa (CMTB5, 17a). Tài liệu Trung Quốc như Tống sử (q. 488), Tư trị thông giám v.v... cũng chép là Dương Diên Nghệ. Ngũ đại sử (q. 65) chép như Toàn thư (là Đình Nghệ). Có thể nhầm nét chữ vì chữ 延 diên và chữ 廷 đình gần giống nhau."

Trong số sách ghi họ tên ông là Dương Diên NghệKhâm định Việt sử thông giám cương mục. Ở phần tiền biên, Quyển V của sách này có ghi chú: "Sách An Nam kỷ yếu chép là Đình Nghệ. Nay theo sách Cương mục (Trung Quốc) đổi lại là Diên Nghệ."

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc và bối cảnh lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Không có thông tin về nguồn gốc và tuổi trẻ của Dương Đình Nghệ. Dương Đình Nghệ lớn lên trong bối cảnh nhà Đường suy vong, Trung Quốc rơi vào một thời kỳ hỗn loạn gọi là Ngũ Đại thập quốc (907-979). Dương Đình Nghệ làm tướng cho Tiết độ sứ Khúc Hạo. Khúc Hạo cai quản Giao châu, còn Dương Đình Nghệ quản lý các vùng đất phía Nam Việt Nam, đồng bằng sông Mã và sông Cả, tức châu Ái và châu Hoan.

Phía Bắc nước Việt tồn tại hai nước lớn là nhà Nam Hánnhà Lương. Sau khi Khúc Hạo chết, năm 919, Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Lương tiến cống, xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Hành động ngoại giao này khiến triều đình Nam Hán cả giận.[4]

Tiến quân ra Bắc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa thu tháng 7 năm 923 (theo sử của Trung Quốc là năm 930), vua Nam Hán Lưu Nghiễm sai tướng là Lý Khắc Chính (hoặc Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh)[5] đem quân sang đánh Giao Châu. Lý Khắc Chính bắt được Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ đem về. Vua Nam Hán phong tước cho Dương Đình Nghệ, cho Lý Tiến làm Thứ sử Giao châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành.[6]

Năm 931, Dương Đình Nghệ lúc này ở Ái châu (Thanh Hóa) tìm cách báo thù cho họ Khúc; theo Khâm định việt sử thông giám cương mục, Dương Đình Nghệ có ý chí khôi phục Giao Châu. Ông nuôi 3.000 giả tử (con nuôi), đặt ra trường đánh vật, chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ.[2]

Lý Tiến lo sợ, sai người cấp báo cho vua Nam Hán, cùng năm ấy, Dương Đình Nghệ đem quân vây Lý Tiến. Vua Nam Hán sai Trần Bảo (hoặc Trình Bảo)[7] đem quân sang cứu, nhưng đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành. Lý Tiến trốn về nước, Trần Bảo vây thành, Dương Đình Nghệ đem quân ra đánh giết chết Trần Bảo.[4]

Dương Đình Nghệ giữ lấy thành, tự xưng là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ nhận lĩnh việc châu.[2]

Cái chết

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa xuân tháng 3 năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn (hoặc Kiểu Công Tiễn), người châu Phong, [7] giết chết. Nghe tin, nha tướng và cũng là con rể của ông là Ngô Quyền kéo quân từ Ái Châu ra Bắc giết chết Kiều Công Tiễn.[4]

Sau khi Trung Quốc xảy ra loạn lạc (907-979) đã mở ra một cơ hội độc lập cho Việt Nam, Dương Đình Nghệ là một trong những thế lực bản địa từ Ái châu đã nhận ra điều này và tiến binh ra Bắc bộ đánh bại quân Nam Hán, mở đường cho và gây cảm hứng các lãnh đạo người Việt sau đó như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn xây dựng nên quốc gia Đại Việt độc lập, tự chủ.

Mặc dù Dương Đình Nghệ xuất hiện rất ngắn trong lịch sử nhưng được người Việt lúc đó xem là một nhân vật lịch sử quan trọng bởi vì sau cái chết của ông, gia đình họ Dương vẫn có quyền lực, mặc dù không trực tiếp, ảnh hưởng lên nền chính trị phần còn lại của thế kỉ. Các vị lãnh đạo kế tiếp đều lấy vợ là người họ Dương, như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn và những bà vợ họ Dương này đều có vai trò quan trọng trong việc chọn người nối ngôi.[8]

Quê hương

[sửa | sửa mã nguồn]

Sách An Nam chí lược, Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép Dương Đình Nghệ là người Ái châu. Theo soạn giả Lê Tắc, sách An Nam chí lược, quyển Đệ nhất, Ái châu là phần thuộc Thanh Hóa.

Nam-Giao đời xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần gọi là Tượng-Quận, nhà Hán đặt làm ba quận: Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam. Nhà Đường lại cải Giao-Châu làm An-nam phủ, quận Cửu-Chân làm Ái-Châu, quận Nhật-Nam làm Hoan-Châu, tức là La-Thành, Thanh-Hóa và Nghệ-An ngày nay vậy.

Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú:

Thanh Hoa [9] nguyên trước là đất Tượng Quận, đời Hán gọi là quận Cửu Chân, Lương đặt là châu Ái, Tùy gọi là Cửu Chân, Đường lại đổi là châu Ái.[10]

Nhận định

[sửa | sửa mã nguồn]

[2]

[2]

Sách An Nam chí lược, quyển Đệ thập cửu chép bài Đồ Chí Ca:

Cuối đời Hàm-Thông Trung-Quốc loạn,
Chuyển-vận đường xa bỏ bê trễ.
Ngô-Quyền, Khúc-Hạo, Kiểu[11] và Dương[12],
Soán đoạt giành nhau, dân kiệt quệ.
Họ Đinh, đời Tống mới phong vương,

Theo nhận định của Keith Weller Taylor trong sách The Birth of Vietnam: " Trong khi Khúc Thừa Mỹ đã theo đuổi một tầm nhìn được lý tưởng hóa về nền văn minh Đường, Dương Đình Nghệ đã sẵn sàng tham gia quyền lực chính trị thực dụng. Ông đã lãnh đạo cho lần thức tỉnh đầu tiên của "Quyền lực Việt Nam" trong thế kỷ thứ 10. Bởi vì ông là người con của châu Ái, sự tôn trọng đối với văn minh Trung Quốc của ông ít hơn Khúc Thừa Mỹ, và trong việc xây dựng lên một quyền lực bản địa dựa trên việc chống lại Nam Hán ông đã mở đường cho sự phát triển nhanh chóng của tình cảm quốc gia người Việt mà đạt được động lực thông qua 3 cuộc chiến chống lại người Trung Quốc trong nửa thế kỷ tiếp theo."[13]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ http://www.xxxxonline.com/tua-sach/viet-nam-su-luoc/quyen-i-phan-ii-chuong-v/286[liên kết hỏng]
  2. ^ a b c d e Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á Châu, Nhà Xuất bản: Văn Sử 1991, Chương Ngoại thuộc Tùy và Đường.
  3. ^ An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, dịch giả Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Nhà Xuất bản Viện Đại học Huế, 1961, Quyển Đệ tứ.
  4. ^ a b c Đại Việt sử ký toàn thư, Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên..., Dịch giả Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
  5. ^ Châu Hải Đường (2018), An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Công ty Cổ phần sách Tao Đàn, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Trang 235.
  6. ^ An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, dịch giả Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Nhà Xuất bản Viện Đại học Huế, 1961, Quyển Đệ thập nhất.
  7. ^ a b Châu Hải Đường (2018), An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Công ty Cổ phần sách Tao Đàn, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Tân Ngũ Đại sử trang 236.
  8. ^ Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam, ISBN 978-0-520-07417-0, 1983, trang 210
  9. ^ Tức Thanh Hóa
  10. ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, soạn giả Phan Huy Chú, dịch giả Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2005, trang 45.
  11. ^ Kiều Công Tiễn.
  12. ^ Dương Đình Nghệ.
  13. ^ Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam, ISBN 978-0-520-07417-0, trang 210
Tiền nhiệm:
Khúc Thừa Mỹ
Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ
931-937
Kế nhiệm:
Kiều Công Tiễn