Bài này chứa trích dẫn quá nhiều hoặc quá dài cho một bài viết bách khoa. (Tháng 3/2023) |
Triều Hồng Bàng
|
|||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||
2879 TCN–258 TCN | |||||||
Tổng quan | |||||||
Vị thế | Vương quốc truyền thuyết (nửa thật, nửa hư cấu) | ||||||
Thủ đô | Ngàn Hống (~2879 TCN – ?) Nghĩa Lĩnh (Thế kỷ XXIX TCN) Phong Châu (Tới 258 TCN) | ||||||
Tôn giáo chính | Thuyết vật linh, tín ngưỡng truyền thống | ||||||
Chính trị | |||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||
Vua | |||||||
• 2879–2794 TCN | Hùng Vương I (đầu tiên) | ||||||
• 408–258 TCN | Hùng Vương XVIII (cuôi cùng) | ||||||
Lịch sử | |||||||
Thời kỳ | Thời kỳ cổ đại, Thời đại đồ đồng, Thời đại đồ sắt | ||||||
• Kinh Dương Vương thành lập liên minh Xích Quỷ | 2879 TCN | ||||||
• Lạc Long Quân lên ngôi và đổi tên nước thành Văn Lang | 2524 TCN | ||||||
• Thục Phán đem quân tiêu diệt | 258 TCN | ||||||
| |||||||
Hiện nay là một phần của | Việt Nam Trung Quốc |
Một phần của loạt bài về |
Lịch sử Việt Nam |
---|
|
|
|
|
|
Cổng thông tin Lịch sử Việt Nam |
Hồng Bàng thị (chữ Hán: 鴻龐氏) hay Thời đại Hồng Bàng là một giai đoạn lịch sử thuộc thời đại thượng cổ của lịch sử Việt Nam.
Thời đại này dựa nhiều trên các truyền thuyết, truyện kể ở những tác phẩm như Lĩnh Nam chích quái[1] và được hợp thức hóa trở thành một giai đoạn lịch sử qua Đại Việt sử ký toàn thư[2], cuốn sử thư đã đưa Hồng Bàng thị làm Kỷ đầu tiên.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc, ngoài ra còn có một số nhóm người sinh sống trên các lưu vực sông thuộc khu vực Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hóa Đông Sơn).
Văn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt Nam, có kinh đô đặt ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lãnh thổ gồm Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
Theo Lĩnh Nam chích quái, quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang:
Cả nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡). Mỗi sách lại chép khác nhau, chủ yếu cóp nhặt từ tên các quận huyện thời Bắc thuộc và chỉ bao phủ phần Lưỡng Quảng của Trung Quốc. Việc chú giải các địa danh cổ theo bản đồ ngày nay vẫn còn tranh cãi.
Lĩnh Nam chích
quái [5] |
Đại Việt Sử Ký toàn thư [6] - theo | Việt Sử Lược [9]
- theo Đào Duy Anh[10] |
---|---|---|
Có 08 bộ có tên gọi giống nhau trong cả 03 sách: | ||
Việt Thường (越裳) | Việt Thường - Thuận Hóa ? | Việt Thường Thị (có Loa Thành) - Hà Tĩnh ? |
Văn Lang (文郎) | Văn Lang - Xứ Đoài | Văn Lang - Xứ Đoài |
Giao Chỉ (交趾) | Giao Chỉ - Thăng Long và Sơn Nam | Giao Chỉ - Thăng Long và Sơn Nam |
Vũ Ninh (武寧) | Vũ Ninh - Kinh Bắc | Vũ Ninh - Kinh Bắc |
Cửu Chân (九真) | Cửu Chân - Thanh Hóa | Cửu Chân - Thanh Hóa |
Hoài Hoan (懷驩) | Hoài Hoan - Nghệ An | Hoài Hoan - Nghệ An |
Ninh Hải (寧海) | Ninh Hải - Quảng Yên | Ninh Hải - Quảng Đông (Trung Quốc) |
Lục Hải (陸海) | Lục Hải - Lạng Sơn | Lục Hải - Hải Ninh (Quảng Yên + Lạng Sơn) |
Các bộ tên gọi khác nhau (cùng hàng chưa chắc là cùng chỉ 1 bộ): | ||
Dương Tuyền (陽泉) | Dương Tuyền (陽泉) - Xứ Đông | Thang Tuyền (湯泉) - Quảng Tây (Trung Quốc) |
Phúc Lộc (福祿) | Phúc Lộc (福祿) - Xứ Đoài | Gia Ninh (嘉寧) - Xứ Đoài |
Chu Diên (朱鳶) | Chu Diên (朱鳶) - Xứ Đoài | Tân Xương (新昌) - Xứ Đoài |
Tượng Quận (象郡) | Cửu Đức (九德) - Hà Tĩnh | Cửu Đức (九德) - Nghệ An |
Chân Định (真定) | Vũ Định (武定) - Thái Nguyên, Cao Bằng | Quân Ninh (軍寧) - Thanh Hóa |
Nhật Nam (日南) | Tân Hưng (新興) - Hưng Hóa, Tuyên Quang | Nhật Nam (日南) - Thuận Hóa |
Quế Lâm (桂林) | Bình Văn (平文) - chưa rõ ở đâu | Bình Văn (平文) - chưa rõ ở đâu |
Trong triều đình có các quan Lạc hầu (駱侯) giúp việc, đứng đầu các bộ là các quan Lạc tướng (駱將), đều có thái ấp riêng, các quan nhỏ ở địa phương gọi là "Bồ chính" (蒲正). Con trai vua gọi là "Quan lang" (官郎), con gái vua gọi là "Mị nương" (媢娘) hay Mệ nàng, nữ nô lệ gọi là "xảo xứng" (稍稱) (còn gọi là "nô tỳ" (奴婢)). Xã hội phân làm ba tầng lớp là vua quan, dân, nô tỳ (nô lệ).
Thủy kinh chú (水經注) chép:
Trích Lĩnh Nam chích quái:
Truyện Hồng Bàng thị trong Lĩnh Nam chích quái chép rằng:
Học giả Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét; đồng thời bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam.[12] Bánh tét, dùng thay cho bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng.