Tàu tuần dương HMS Curlew
| |
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Curlew |
Xưởng đóng tàu | Vickers Limited, Barrow in Furness |
Đặt lườn | 21 tháng 8 năm 1916 |
Hạ thủy | 5 tháng 7 năm 1917 |
Nhập biên chế | 14 tháng 12 năm 1917 |
Số phận | Bị máy bay ném bom Đức đánh chìm ngoài khơi Narvik, Na Uy, 26 tháng 5 năm 1940 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | lớp tàu tuần dương C |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 137,2 m (450 ft) (chung) |
Sườn ngang | 13,3 m (43 ft 7 in) |
Mớn nước | 4,3 m (14 ft) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 53,7 km/h (29 knot) |
Tầm xa |
|
Tầm hoạt động | 300 tấn dầu đốt (tối đa 950 tấn) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 327 |
Hệ thống cảm biến và xử lý | radar Kiểu 79Z (1939)[1] |
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
HMS Curlew (D42) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương C của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Curlew thuộc về lớp phụ Ceres, vốn còn bao gồm HMS Ceres, HMS Cardiff, HMS Coventry và HMS Curacoa, giữ lại kiểu dáng hai ống khói và chỉ khác biệt đôi chút so với lớp phụ Caledon trước đó.
Curlew được đặt lườn tại xưởng đóng tàu Vickers Limited tại Barrow in Furness vào ngày 21 tháng 8 năm 1916. Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 7 năm 1917 và được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 14 tháng 12 năm 1917.
Giống như đa số các tàu chị em, Curlew được tái trang bị thành một tàu tuần dương phòng không trước chiến tranh. Vào năm 1936, nó được đưa về lực lượng dự bị tại Nore dưới quyền chỉ huy của Augustus Agar cho đến đầu năm 1937. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Curlew đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Basil Charles Barrington Brooke, và phục vụ cùng Hạm đội Nhà Anh Quốc. Nó đã tham gia Chiến dịch Na Uy, và trong khi đang hoạt động ngoài khơi bờ biển Na Uy vào ngày 26 tháng 5 năm 1940, nó bị máy bay ném bom Đức Junkers Ju 88 đánh chìm tại Lavangsfjord, Ofotfjord gần Narvik.