Thaís Guedes

Thaís Guedes
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Thaís Duarte Guedes[1]
Ngày sinh 20 tháng 1, 1993 (31 tuổi)
Nơi sinh São Paulo, Brazil[2]
Chiều cao 164 cm (5 ft 5 in)[1]
Vị trí Tiền đạo
Thông tin đội
Đội hiện nay
Incheon Red Angels
Số áo 11
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2005–2008 Juventus
2009–2010 Santos
2011 Bangu
2011–2013 Vitória das Tabocas
2013– Incheon Red Angels
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2008–2010 U-17 Brazil
2010– Brazil
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Brasil
Football
Pan American Games
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 2011 Guadalajara Cùng với đội bóng
Universiade
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 2011 Shenzhen Cùng với đội bóng
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Thaís Duarte Guedes (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1993),[3] được biết đến với cái tên Guedes hoặc Thaisinha, là một cầu thủ bóng đá nữ người Brazil hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Incheon Red Angels tại WK League của Hàn Quốc và đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Brazil. Ở các cấp độ trẻ của Brazil, cô từng thi đấu tại Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới 2008Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới 2012. Ở cấp độ đội tuyển quốc gia, cô đã tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011Thế vận hội mùa hè 2012. Là một cầu thủ chơi lắt léo, phong cách của cô đã được so sánh với Neymar, cầu thủ bóng đá nam Brazil.[4]

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 2 năm 2013, Thaís và người đồng đội của cô tại Vitória das Tabocas, Beatriz Zaneratto João tuyên bố rằng họ đã chấp nhận việc chuyển đến chơi bóng cho câu lạc bộ Hàn Quốc Incheon Hyundai Steel Red Angels.[5]

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Thaís ra mắt đội tuyển quốc gia vào tháng 12 năm 2010, trong chiến thắng 3–0 trước Mexico thuộc khuôn khổ giải Torneio Internacional Cidade de São Paulo 2010 tại sân vận động Pacaembu.[6] Thaís được triệu tập vào đội hình tuyển Brazil tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 được tổ chức tại Đức và góp mặt trong chiến thắng 3–0 trước Guinea Xích Đạo ở vòng bảng.

Thaís đã được gọi trở lại đội tuyển quốc gia sau 23 tháng vắng bóng vào tháng 11 năm 2015. Cô trở lại tập luyện tại câu lạc bộ Hàn Quốc sau khoảng thời gian ban đầu phải vật lộn để thích nghi và chịu nhiều chấn thương.[7]

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Goal
Ngày
Địa điểm Đối thủ # Bàn thắng Kết quả chung cuộc Giải đấu
1 2011-10-18 Guadalajara, Mexico  Argentina 1.1

5250.02005 1–0

5450.04005 2–0

2011 Pan American Games
2 2011-10-20 Guadalajara, Mexico  Costa Rica 1.1

5250.02005 2–0

5450.04005 2–1

2011 Pan American Games
3 2011-12-11 São Paulo, Brazil  Chile 1.1

5250.02005 3–0

5450.04005 4–0

Torneio Internacional 2011
4 2016-03-07 Lagos, Bồ Đào Nha  Nga 1.1

5250.02005 3–0

5450.04005 3–0

Algarve Cup 2016

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “Women's Olympic Football Tournament London 2012 – List of Players Brazil” (PDF). FIFA. ngày 24 tháng 7 năm 2012. tr. 1. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  2. ^ “Thais Duarte Guedes” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Internet Group. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  3. ^ “Thais Duarte Guedes - Goal.com”. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2012.
  4. ^ Simões, Felipe (ngày 12 tháng 12 năm 2011). “Promessa do futebol feminino, Thaisinha brinca com comparações a Neymar e se rende a Marta e Cristiane” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Grupo Record. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  5. ^ “Bia e Thaisinha são transferidas para o futebol da Coreia” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Vitória das Tabocas. ngày 18 tháng 2 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2015.
  6. ^ Leme de Arruda, Marcelo (ngày 28 tháng 11 năm 2015). “Seleção Brasileira Feminina (Brazilian National Women's Team) 2008-2010”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  7. ^ “Thaisinha está de volta à Seleção” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazilian Football Confederation. ngày 29 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.[liên kết hỏng]