Điện ảnh Slovakia

Điện ảnh Slovakia
Số màn chiếu209 (2011)[1]
 • Bình quân đầu người4.2/100.000 (2011)[1]
Nhà phân phối chínhContinental Film 32.0%
Tatrafilm 31.0%
Itafilm 11.0%[2]
Phim truyện được sản xuất (2015)[3]
Giả tưởng12 (46,2%)
Hoạt hình3 (11,5%)
Tài liệu11 (42,3%)
Số lượt xem (2011)[5]
Tổng cộng3.603.544
 • Trên đầu người0,64 (2012)[4]
Phim quốc gia362.648 (10,1%)
Tổng doanh thu phòng vé (2011)[5]
Tổng cộng€17,3 triệu
Phim quốc gia€1,53 triệu (8.9%)

Nền điện ảnh Slovakia trải dài trên hàng loạt đè tài và phong cách đặc trưng của nền điện ảnh châu Âu. Mặc dù vậy có thể thấy một lượng lớn các đề tài nhất định lặp lại trong đa số các tác phẩm quan trọng. Các đề tài ấy bao gồm bối cảnh nông thôn,[6] truyền thống dân gian và lễ hội hóa trang.[7] Thậm chỉ ở mảng làm phim thể nghiêm cũng thường có sự tôn vinh thiên nhiên và truyền thống, lấy ví dụ như bộ phim Pictures of the Old World (Obrazy starého sveta, 1972) của Dušan Hanák. Những đặc điểm tương tự còn áp dụng cho các bộ phim bom tấn như A Thousand-Year Old Bee (Tisícročná včela, 1983) của Juraj Jakubisko.[8] Tỷ lệ các bộ phim hài, phiêu lưu, âm nhạc và khoa học viễn tưởng cùng các thể loại phim tương tự tương đối thấp so với các bộ phim chính kịch và lịch sử, từng gồm có một nhóm nhỏ các bình luận xã hội về những sự kiện từ một hoặc hai thập kỷ trước bộ phim. Một trong số chúng là The Shop on Main Street của Ján KadárElmar Klos' (Obchod na korze, 1965),[9] đã đem lại cho nền điện ảnh Slovakia (cũng như của Séc nói riêng và của Tiệp Khắc nói chung) giải Oscar đầu tiên. Các bộ phim thiếu nhi là một dòng phim lâu đời từ thập niên 1960 cho đến thập niên 1980, được sản xuất chủ yếu dưới dạng kinh phí thấp bởi Slovak Television Bratislava. Các đề tài của những bộ phim gần đây đa phần là đề tài đương đại.

Trung tâm của nền điện ảnh Slovakia là xưởng phim Koliba[10] (từng có nhiều lần chính thức đổi tên) ở Bratislava. Một vài bộ phim đã ra đời tại Barrandov StudiosPraha có đề tài, diễn viên, đạo diễn và đôi khi là bằng tiếng Slovakia, trong khi các nhà làm phim và diễn ở Praha thỉnh thoảng công tác ở Slovakia.[11] Nhằm phù hợp với lịch sử Slovakia, Hungarycác vùng đất Séc, quá khứ chia sẻ giữa Vương quốc HungaryTiệp Khắc, lúc đầu thường có sự trùng lặp giữa các bộ phim của Slovakia và Hungary, và sau này là giữa Slovakia và phim của Séc.[12] Một vài bộ phim có thể dễ dàng bị xếp vào thể loại này hoặc thể loại nọ, trong khi một số phim khác lại có ý nghĩa nhiều hơn là nền điện ảnh một quốc gia.

Khoảng 350 phim điện ảnh của Slovakia đã được làm ra trong lịch sử điện ảnh Slovakia. Một số tác phẩm điện ảnh đáng chú ý đã được đón nhận tốt bởi giới phê bình cũng như trở thành các bom tấn phòng vé nội địa. Trong những năm gần đây, các bộ phim của Slovakia thường được sản xuất bằng việc hợp tác (toàn phần hoặc một phần) với các công ty sản xuất phim nước ngoài. Các dự án chung giữa Slovakia và Séc đặc biệt phổ biến. Ngành công nghiệp điện ảnh Slovakia đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu doanh thu do lượng khán giả eo hẹp của đất nước (2,9–5,4 triệu dân), làm giới hạn tiềm năng doanh thu chính là tiền bán vé nội địa của phim.

Các bộ phim nổi tiếng

[sửa | sửa mã nguồn]
Áp phích chiếu rạp của Bathory. Đây là bộ phim có kinh phí đắt nhất của điện ảnh Slovakia.

Đạo diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Passek, Jean-Loup; Zaoralová, Eva biên tập (1996). Le cinéma tchèque et slovaque. Paris: Centre national d'art et de culture Georges Pompidou. ISBN 9782858508921. OCLC 415079480.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “Table 8: Cinema Infrastructure - Capacity”. UNESCO Institute for Statistics. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2013.
  2. ^ “Table 6: Share of Top 3 distributors (Excel)”. UNESCO Institute for Statistics. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2013.
  3. ^ “Table 1: Feature Film Production - Genre/Method of Shooting”. UNESCO Institute for Statistics. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2018.
  4. ^ “Country Profiles”. Europa Cinemas. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
  5. ^ a b “Table 11: Exhibition - Admissions & Gross Box Office (GBO)”. UNESCO Institute for Statistics. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2013.
  6. ^ “Martin Votruba, "Historical and Cultural Background of Slovak Filmmaking.". Kinokultura.com. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  7. ^ “Jana Dudková, "Elo Havetta: The Gala in the Botanical Garden (Slávnosť v botanickej záhrade), 1968.". Kinokultura.com. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  8. ^ a b “Kevin Brochet, "Juraj Jakubisko: A Thousand-Year Old Bee (Tisícročná včela) 1983.". Kinokultura.com. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  9. ^ a b “Steven Banovac, "Ján Kadár and Elmar Klos: The Shop on Main Street (Obchod na korze) 1965.". Kinokultura.com. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  10. ^ “Koliba, Bratislava”. Mapy.zoznam.sk. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  11. ^ “Václav Macek, "From Czechoslovak to Slovak and Czech Film.". Kinokultura.com. ngày 21 tháng 8 năm 1968. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  12. ^ “Andrew James Horton, "Just Who Owns the Shop? — Identity and nationality in Obchod na korze."”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2011.
  13. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên ce-review.org
  14. ^ “Kevin Brochet, "Dušan Hanák: Paper Heads (Papierové hlavy) 1995.". Kinokultura.com. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  15. ^ “Andrew James Horton, "Juraj Jakubisko's Sedim na konari a je mi dobre."”. Ce-review.org. ngày 7 tháng 12 năm 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  16. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Kevin Brochet 1982
  17. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Anne E. Kellogg 1976
  18. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Alex Golden 1963
  19. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Jasmine Pogue 1963

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Có gì trong hương vị tình thân
Có gì trong hương vị tình thân
Phải nói đây là bộ phim gây ấn tượng với mình ngay từ tập đầu, cái tên phim đôi khi mình còn nhầm thành Hơi ấm tình thân
Download Saya no Uta Việt hóa
Download Saya no Uta Việt hóa
Trong thời gian sống tại bệnh viện, Fuminori đã gặp 1 cô gái xinh đẹp tên Saya
Tabula Smaragdina – Giả Kim Thuật Sư Vĩ Đại của Ainz Ooal Gown
Tabula Smaragdina – Giả Kim Thuật Sư Vĩ Đại của Ainz Ooal Gown
Tabula là một thành viên của guild Ainz Ooal Gown và là “cha” của 3 NPC độc đáo nhất nhì Nazarick là 3 chị em Nigredo, Albedo, Rubedo
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
[RADIO NHUỴ HY] Tôi thích bản thân nỗ lực như thế