Các nhà sử học Ả Rập thời trung cổ đưa ra những dữ liệu trái ngược nhau về nguồn gốc và quốc tịch của Ṭāriq. Một số kết luận về tính cách và hoàn cảnh ông khi xâm nhập al-Andalus vẫn còn chưa chắc chắn.[1] Phần lớn các nguồn hiện đại đều nói rằng Ṭāriq là mawlangười Berber của Musa ibn Nusayr, thống đốc Umayyad của Ifriqiya.[1][2][3][4]
Theo Ibn Khaldun, Tariq Ibn Ziyad đến từ bộ tộc Berber ở vùng đất mà ngày nay thuộc Algeria.[5] Heinrich Barth đề cập rằng Tariq Ibn Ziyad là người Berber đến từ bộ tộc Ulhassa,[6] một bộ tộc bản địa của Tafna[7] hiện đang sinh sống ở vùng Béni Saf ở Algeria.[7] Theo David Nicolle, Tariq Ibn Ziyad lần đầu tiên được nhắc đến trong các ghi chép lịch sử với tư cách là thống đốc Tangier.[8] Ngoài ra, theo David Nicolle, theo truyền thống người ta tin rằng ông sinh ra ở Wadi Tafna (một vùng thuộc Tlemcen ngày nay).[5] [9] Ông cũng đã sống ở đó với vợ trước khi cai trị Tangier.[5][9] He had also lived there with his wife prior to his governance of Tangier.[10]
Theo Ibn Abd al-Hakam (803–871), Musa ibn Nusayr đã bổ nhiệm Ṭāriq làm thống đốc của Tangier sau cuộc chinh phục vào năm 710–711[11] nhưng một tiền đồn Visigothic chưa bị chinh phục vẫn ở gần đó tại Ceuta, một thành trì được cai trị bởi nhà quý tộc tên là Julian, Bá tước xứ Ceuta.
Sau khi Roderic lên nắm quyền ở Tây Ban Nha, Julian, theo thông lệ, đã gửi con gái của mình là Florinda la Cava, đến triều đình của vua Visigothic để học tập. Người ta nói rằng Roderic đã cưỡng hiếp cô, và Julian quá tức giận nên quyết tâm nhờ người Hồi giáo lật đổ Vương quốc Visigothic. Theo đó, ông đã ký một hiệp ước với Ṭāriq (Mūsā đã trở về Kairouan) để bí mật hộ tống quân đội Hồi giáo qua Eo biển Gibraltar, vì ông sở hữu một số tàu buôn và có pháo đài riêng trên đất liền Tây Ban Nha.[12]
Vào khoảng ngày 26 tháng 4 năm 711, quân đội của Ṭāriq Bin Ziyad, bao gồm những người Berber gần đây mới chuyển sang đạo Hồi, đã được Julian đưa đổ bộ lên bán đảo Iberia (thuộc Tây Ban Nha ngày nay).[a] Họ đổ bộ xuống chân đồi của một ngọn núi từ đó được đặt theo tên ông, Gibraltar (Jabal Tariq).[13]
Quân đội của Ṭāriq có khoảng 7.000 binh sĩ, bao gồm phần lớn là người Berber và cả quân Ả Rập.[14] Roderic, để đối phó với mối đe dọa từ Umayyads, đã tập hợp một đội quân được cho là lên tới 100.000 người,[15] mặc dù con số thực tế có thể thấp hơn nhiều.[16] Phần lớn quân đội được chỉ huy và trung thành với các con trai của Wittiza, người mà Roderic đã phế truất một cách tàn nhẫn.[17] Ṭāriq đã giành được chiến thắng quyết định khi Roderic bị đánh bại và bị giết vào ngày 19 tháng 7 trong Trận Guadalete.[1][18]
Ṭāriq Bin Ziyad chia quân đội của mình thành 4 sư đoàn, tiếp tục đánh chiếm Córdoba dưới sự chỉ huy của Mughith al-Rumi, Granada và những nơi khác, trong khi ông vẫn đứng đầu sư đoàn đã chiếm được Toledo. Sau đó, ông tiếp tục tiến về phía Bắc, tới Guadalajara và Astorga.[1] Ṭāriq trên thực tế là thống đốc của Hispania cho đến khi Mūsā đến một năm sau đó. Thành công của Ṭāriq khiến Musa tập hợp 12.000 quân (chủ yếu là người Ả Rập) để lên kế hoạch cho cuộc xâm lược lần thứ hai, và trong vòng vài năm, Ṭāriq và Musa đã chiếm được 2/3 bán đảo Iberia từ tay người Visigoth.[19][20]
Cả Ṭāriq và Musa đều được Umayyad Caliph Al-Walid I ra lệnh quay trở lại Damascus vào năm 714, nơi họ đã sống phần đời còn lại của mình.[18] Con trai của Musa là Abd al-Aziz, người chỉ huy quân đội của al-Andalus, bị ám sát vào năm 716.[2] Trong nhiều lịch sử Ả Rập viết về cuộc chinh phục miền Nam Tây Ban Nha, có sự phân chia quan điểm rõ ràng về mối quan hệ giữa Ṭāriq và Musa bin Nusayr. Một số kể lại những giai đoạn tức giận và ghen tị của Mūsā khi người của ông ta đã chinh phục cả một đất nước. Mặt khác, một nhà sử học thời kỳ đầu khác, al-Baladhuri, viết vào thế kỷ thứ IX, chỉ nói rằng Mūsā đã viết cho Ṭāriq một "bức thư nghiêm khắc" và sau đó hai người đã hòa giải.[21]
^There is a legend that Ṭāriq ordered that the ships he arrived in be burnt, to prevent any cowardice. This is first mentioned over 400 years later by the geographer al-Idrisi, fasc. 5 p. 540 of Arabic text (tiếng Ả Rập: فٱمر بإحراق المراكب), vol. 2 p. 18 of French translation. Apart from a mention in the slightly later Kitāb al-iktifa fī akhbār al-khulafā (English translation in Appendix D of Gayangos, The History of the Mohammedan Dynasties in Spain), this legend was not sustained by other authors.
^Alternatively, he was left as governor when Mūsā's son Marwan returned to Qayrawan. Both explanations are given by Ibn Abd al-Hakam, p. 41 of Spanish translation, p. 204 of Arabic text.
^Akhbār majmūa, p. 21 of Spanish translation, p. 6 of Arabic text.
^Akhbār majmūa p. 8 of Arabic text, p. 22 of Spanish translation.
^Collins, Roger (2004). Visigothic Spain 409–711. New Jersey: John Wiley and Sons Ltd. tr. 141. ISBN978-1405149662.
^According to some sources, e.g., al-Maqqari p. 269 of the English translation, Wittiza's sons by prior arrangement with Ṭāriq deserted at a critical phase of the battle. Roger Collins takes an oblique reference in the Mozarab Chronicle par. 52 to mean the same thing.
Anon., Akhbār majmūa fī fath al-andalūs wa dhikr ūmarā'ihā. Arabic text edited with Spanish translation: E. Lafuente y Alcantara, Ajbar Machmua, Coleccion de Obras Arabigas de Historia y Geografia, vol. 1, Madrid, 1867.
Ibn Abd al-Hakam, Kitab Futuh Misr wa'l Maghrib wa'l Andalus. Critical Arabic edition of the whole work published by Torrey, Yale University Press, 1932. Spanish translation by Eliseo Vidal Beltran of the North African and Spanish parts of Torrey's Arabic text: "Conquista de Africa del Norte y de Espana", Textos Medievales #17, Valencia, 1966. This is to be preferred to the obsolete 19th-century English translation at: Medieval Sourcebook: The Islamic conquest of SpainLưu trữ 2011-07-14 tại Wayback Machine
Enrique Gozalbes Cravioto, "Tarif, el conquistador de Tarifa", Aljaranda, no. 30 (1998) (not paginated).
Muhammad al-Idrisi, Kitab nuzhat al-mushtaq (1154). Critical edition of the Arabic text: Opus geographicum: sive "Liber ad eorum delectationem qui terras peragrare studeant." (ed. Bombaci, A. et al., 9 Fascicles, 1970–1978). Istituto Universitario Orientale, Naples. French translation: Jaubert, Pierre Amédée (1836–1840). Géographie d'Édrisi traduite de l'arabe en français d'après deux manuscrits de la Bibliothèque du roi et accompagnée de notes (2 Vols). Paris: L'imprimerie Royale..
Ibn Taghribirdi, Nujum al-zahira fi muluk Misr wa'l-Qahira. Partial French translation by E. Fagnan, "En-Nodjoum ez-Zâhîra. Extraits relatifs au Maghreb." Recueil des Notices et Mémoires de la Société Archéologique du Département de Constantine, v. 40, 1907, 269–382.
Ibn Khallikan, Wafayāt al-aʿyān wa-anbāʾ abnāʾ az-zamān. English translation by M. De Slane, Ibn Khallikan's Biographical dictionary, Oriental Translation Fund of Great Britain and Ireland, 1843.
Tarik's Address to His Soldiers, 711 CE, from The Breath of PerfumesLưu trữ 2014-09-09 tại Wayback Machine. A translation of al-Maqqari's work included in Charles F. Horne, The Sacred Books and Early Literature of the East, (New York: Parke, Austin, & Lipscomb, 1917), Vol. VI: Medieval Arabia, pp. 241–242. Horne was the editor, the translator is not identified. NB: the online extract, often cited, does not include the warning on p. 238 (download the whole book from other sites): "This speech does not, however, preserve the actual words of Tarik; it only presents the tradition of them as preserved by the Moorish historian Al Maggari, who wrote in Africa long after the last of the Moors had been driven out of Spain. In Al Maggari's day the older Arabic traditions of exact service had quite faded. The Moors had become poets and dreamers instead of scientists and critical historians."